Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020

Báo cáo Kết quả thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và và Chỉ thị 26/CT-Ttg ngày 6/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 35/NQ-CP theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp trong năm 2017

Thứ năm, 04-01-2018 | 14:51:00 PM GMT+7 Bản in

PHÒNG THƯƠNG MẠI

VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Số: 3450 /PTM – VP

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

 Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2017

BÁO CÁO

Kết quả thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và và Chỉ thị 26/CT-Ttg ngày 6/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 35/NQ-CP theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp trong năm 2017

-----------------------------------

Nghị quyết 35 và Chỉ thị 26 đã giao cho VCCI  06 nhóm nhiệm vụ và một số nhiệm vụ phối hợp. Đến nay VCCI đã triển khai thực hiện 6/6 nhiệm vụ được giao, đồng thời phối hợp với các bộ ngành, địa phương, hiệp hội doanh nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp triển khai các nhóm giải pháp được nêu trong nghị quyết.

  1. Tổng hợp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp:

1.1. Kết quả tập hợp kiến nghị của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và theo dõi việc giải quyết của các bộ, ngành, địa phương

Từ tháng 1/2017 đến hết 30/11/2017, đã có 1.152 kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp đã được tiếp nhận và chuyển tới các cơ quan nhà nước, trong đó có 954 kiến nghị được xử lý, giải quyết, trả lời, đạt tỷ lệ 82,4%. Các kiến nghị chưa được xem xét, giải quyết chủ yếu là các kiến nghị chung về môi trường kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, sửa đổi pháp luật, cơ chế chính sách đang được các bộ ngành, địa phương tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Chi tiết như sau:

- Các kiến nghị do VCCI tập hợp: Từ 1/1/2017 đến hết 30/11/2017, VCCI đã tập hợp được 261 kiến nghị gửi các bộ, ngành, địa phương giải quyết. Cho đến nay, đã có 219 kiến nghị (đạt tỷ lệ 83,9 %) được giải quyết, còn lại 42 kiến nghị chưa được xử lý ( tỷ lệ 16,1%), trong đó có nhiều kiến nghị mới được gửi nên các bộ, ngành, địa phương chưa kịp giải quyết. Kết quả việc giải quyết kiến nghị cụ thể như sau:

+ Để chuẩn bị cho Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp Doanh nghiệp 2017 và sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP, từ tháng 2/2017 đến trước Hội nghị, VCCI đã tập hợp được188 kiến nghị từ doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp và đã chuyển các bộ ngành, địa phương giải quyết. Tính đến nay, doanh nghiệp xin rút 3 kiến nghị, các bộ ngành đã xử lý, giải quyết, trả lời 166 kiến nghị và thông báo cho VCCI (đạt tỷ lệ giải quyết 89,73%), còn 19 kiến nghị chưa trả lời. Tuy nhiên, 19 kiến nghị chưa được trả lời chủ yếu là các kiến nghị có nội dung chung chung, mang tính chất đề xuất nguyện vọng, giải pháp về môi trường kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, sửa đổi pháp luật, cơ chế chính sách nên không xác định được thẩm quyền giải quyết thuộc bộ, ngành nào hoặc các bộ, ngành, địa phương chỉ ghi nhận và nghiên cứu, xem xét trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật.

+ Ngoài tập hợp kiến nghị trước thềm Hội nghị Thủ tướng gặp doanh nghiệp, hàng tháng VCCI đều tập hợp kiến nghị từ các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp gửi các bộ ngành, địa phương giải quyết. Cụ thể, VCCI tập hợp gửi các bộ, ngành, địa phương được 76 kiến nghị. Cho đến hết 30/11/2017, giải quyết được 53 kiến nghị. Còn 23 kiến nghị trong đó một số kiến nghị mới chuyển đến các bộ, ngành, địa phương nên chưa kịp thời gian trả lời.

- Kiến nghị do Văn phòng Chính phủ tập hợp: Hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ do Văn phòng Chính phủ điều hành (www.doanhnghiep.chinhphu.vn) từ 1/1/2017 đến hết 30/11/2017 cũng đã tiếp nhận và chuyển các bộ ngành, địa phương 891 kiến nghị từ các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp, trong đó có 735 kiến nghị đã được xử lý, giải quyết, trả lời (đạt tỷ lệ 82,49%). Ngoài ra còn có 211 kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ hoặc phải giải quyết theo quy trình khiếu nại, tố cáo cũng đã được Văn phòng Chính phủ trình Thủ tướng Chính phủ giải quyết, cũng như xử lý theo quy trình khiếu nại, tố cáo theo quy định

- Các nội dung kiến nghị chủ yếu của cộng đồng doanh nghiệp tập trung vào một số vấn đề sau đây:

+ Về cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp: Tập trung vào việc cải tiến thủ tục thuế, hải quan, tiếp cận đất đai, thanh tra, kiểm tra, môi trường; Tinh thần, thái độ phục vụ của các công chức làm việc trong lĩnh vực trên; Yêu cầu các cơ quan Nhà nước cũng phải tuân thủ pháp luật, bình đẳng với các doanh nghiệp. Nội dung nổi bật trong các kiến nghị là công tác kiểm tra chuyên ngành của các bộ, ngành. Trong khi thủ tục hành chính của ngành Hải quan đã được cải thiện đáng ghi nhận thì công tác kiểm tra chuyên ngành của các bộ, ngành lại chậm được cải thiện, nhiều kiểm tra chuyên ngành không cần thiết hoặc quá kéo dài gây lãng phí thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp. Hơn nữa, pháp luật về quản lý chuyên ngành của Việt Nam không phải là một hệ thống pháp luật đơn nhất mà là tập hợp các quy định có liên quan tới quản lý đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trong nhiều hệ thống pháp luật chuyên ngành khác nhau. Hiện có khoảng gần 300 văn bản (bao gồm các văn bản pháp luật và, trong một số trường hợp, còn có cả các văn bản khác như công văn, hướng dẫn, thông báo…) có quy định về vấn đề này, được soạn thảo, ban hành và/hoặc thực thi bởi ít nhất 10 Bộ chuyên ngành  (Công thương, Khoa học và Công nghệ, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông vận tải, Quốc phòng, Thông tin và Truyền thông, Văn hóa Thể thao và Du lịch, Tài nguyên và Môi trường; Lao động, Thương binh và Xã hội). Vì vậy, để nhanh chóng đơn giản hóa các thủ tục kiểm tra chuyên ngành, loại bỏ các thủ tục kiểm tra không cần thiết cần phải có sự chỉ đạo quyết liệt và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc của Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ đối với các bộ ngành.

+ Về tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo: Tập trung vào việc phát huy hiệu quả của các Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia; Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa...; Cần tiếp tục tiến hành thường xuyên hoạt động rà soát, đánh giá các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện để xác định chính xác các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện phù hợp với mục tiêu quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật đầu tư 2014, vừa đảm bảo sự quản lý của Nhà nước vừa hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của các quy định tại Luật đầu tư 2014 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP. 

+ Về bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp: Các kiến nghị liên quan tới việc đề nghị thực hiện nghiêm túc việc tham vấn các đối tượng chịu tác động và tham vấn chuyên gia trong quá trình xây dựng, thực hiện pháp luật, chính sách; Tăng cường chất lượng và sự tham gia của cán bộ pháp chế các bộ ngành trong xây dựng pháp luật; Mâu thuẫn, chồng chéo giữa các Quy định pháp luật.

+ Về giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp: Tập trung vào việc đảm bảo  mặt bằng lãi suất phù hợp; Giảm bớt các mức đóng góp của Người sử dụng lao động; Giảm giá thuê đất, giảm mức thu phí tại một số dự án BOT, một số loại phí, lệ phí khác. Nổi cộm là đề nghị giảm phí sử dụng công trình, kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cảng biển Hải Phòng theo Nghị quyết số 148/2016/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân TP Hải Phòng và đề nghị giảm phí tại một số dự án BOT giao thông trên toàn quốc. Ngoài ra, chi phí logistics đang chiếm tỷ lệ rất cao trong chi phí kinh doanh của doanh nghiệp (20% GDP theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới) mà nguyên nhân chủ yếu là: thủ tục thông quan (hải quan và kiểm tra chuyên ngành) phức tạp; các khu, cụm công nghiệp chưa gắn kết tốt với quy hoạch hạ tầng giao thông; hạ tầng các dịch vụ kho bãi thiếu và yếu… 

+ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp: Các kiến nghị đề cập đến các vấn đề về bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp khi làm thủ tục phá sản doanh nghiệp; Thi hành án dân sự, nhất là khi có tranh chấp hợp đồng giữa doanh nghiệp và nông dân; Có chế tài đủ mạnh để răn đe các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm bản quyền SHTT; Bảo vệ doanh nghiệp trong quan hệ lao động; Thanh tra, kiểm tra không đúng quy định.

1.2. Một số nhận xét về kết quả giải quyết kiến nghị của các bộ, ngành, địa phương:

Nhìn chung, việc giải quyết các nghị của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp của các bộ, ngành, địa phương trong năm 2017 kịp thời và đầy đủ hơn so với năm 2016. Đặc biệt sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 26/CT-Ttg ngày 6/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 35/NQ-CP theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp trong năm 2017.

Qua theo dõi kết quả giải quyết kiến nghị của các bộ, ngành, địa phương, VCCI nhận thấy, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, UBND TP Hà Nội, Thừa Thiên Huế…  là những bộ, ngành, địa phương trả lời kiến nghị của doanh nghiệp do Văn phòng Chính phủ và VCCI tập hợp khá kịp thời và đầy đủ. Việc trả lời kiến nghị của một số bộ, ngành, địa phương đặc biệt là các địa phương khá chậm.

Một số kiến nghị tuy được các bộ, ngành trả lời nhưng việc trả lời thiên về giải thích pháp luật và không nêu hướng giải quyết dứt điểm kiến nghị của doanh nghiệp như: Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính trả lời các doanh nghiệp xuất khẩu vật liệu xây dựng tỉnh Nghệ An về vướng mắc trong thực hiện thông tư 130/2016/TT-BTC ngày 12/08/2016 tại công văn số 2972/TCT-CS ngày 6/7/2017, tuy nhiên nội dung câu trả lời chỉ giải thích pháp luật mà không trả lời thẳng vào kiến nghị, đề xuất của doanh nghiệp về việc sau 10 tháng kể từ khi Thông tư có hiệu lực các doanh nghiệp mới tiếp cận được thông tin về chủ trương chính sách. Trong thời gian này doanh nghiệp vẫn áp dụng luật thuế GTGT, thông tư 26-2015/TT-BTC ngày 27/5/2015 để thực hiện. Đến khi làm thủ tục tại Cục thuế tỉnh Nghệ An để hoàn thuế GTGT cho doanh nghiệp thì Cục thuế trả lời phải thực hiện theo thông tư 130/2016 dẫn đến việc hoàn thuế rất chậm, doanh nghiệp phải chịu thiệt hại; Bộ Giao thông Vận tải nhiều lần trả lời kiến nghị của Công ty Việt – Séc về việc đăng kiểm cano (mã hiệu sản xuất H30 và H38 của Công ty CP công nghệ Việt Séc) có sức chở trên 12 người nhưng vẫn lúng túng chưa có cách giải quyết dứt điểm cho doanh nghiệp để khuyến khích việc áp dụng công nghệ, vật liệu mới trong sản xuất cano….

1.3. Một số biện pháp tăng cường chất lượng công tác tập hợp kiến nghị doanh nghiệp

- Thành lập và triển khai hoạt động của các Ủy ban chuyên đề thuộc Ban Chấp hành VCCI theo các ngành, lĩnh vực trọng tâm ( tương tự mô hình của VBF) nhằm nâng cao hơn nữa chât lượng các đề xuất, kiến nghị.

- Phối hợp có hiệu quả hơn với Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương trong việc theo dõi, đôn đốc trả lời kiến nghị của doanh nghiệp

- Triển khai việc khảo sát, đánh giá phản hồi của doanh nghiệp đối với kết quả giải quyết kiến nghị của các bộ, ngành, địa phương ( đối với các kiến nghị do VCCI tập hợp và chuyển đến các cơ quan chức năng).

  1. Tổng hợp tình hình thực hiện cam kết với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về môi trường kinh doanh:

          Qua việc theo dõi tình hình thực hiện cam kết của VCCI và báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố cho thấy có một số kết quả nổi bật và hạn chế cụ thể như sau:

1.2.1. Kết quả nổi bật

- Việc triển khai Nghị quyết 35/NQ-CP đã tạo chuyển biến tích cực trong tư tưởng, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt về lề lối, tác phong, thái độ phục vụ. Công tác phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư đã được các địa phương quan tâm. Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp như đào tạo, xúc tiến thương mại, bảo lãnh tín dụng, vườn ươm doanh nghiệp… được triển khai và nhận được phản ứng tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp.

- Thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP, Chỉ thị 26/CT-TTg, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã xây dựng nhiều chương trình hành động với các nhiệm vụ chính: Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá hồ sơ, thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết công việc, giảm số lần đi lại, tiết kiệm chi phí cho các nhà đầu tư; Tập trung hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, tiếp cận tín dụng, an ninh trật tự và các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, công khai, minh bạch thông tin cho doanh nghiệp và thực hiện Chính phủ điện tử; Tăng cường quản lý, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức , viên chức trong thực thi công việc.

- Công tác cải cách thủ tục hành chính của nhiều địa phương đã đạt được kết quả tốt, một số thủ tục hành chính vượt chỉ tiêu mà Nghị quyết 19/NQ-CP và cam kết đã ký với VCCI như: Thời gian thành lập doanh nghiệp: đa số các tỉnh là 2 ngày (giảm 1 ngày so với Cam kết). Có tỉnh chỉ có 1,5 – 1,84 ngày như: Đồng Nai (1,84), Lai Châu (1,5), Hậu Giang(1,5), Hà Tĩnh (1,66)…; Thời gian thông quan hàng hóa: đa số các tỉnh đều đạt chỉ tiêu Nghị quyết 19 và Cam kết đã đề ra là: thời gian qua biên giới dưới 10 ngày đối với hàng xuất khẩu; đối với hàng nhập khẩu dưới 12 ngày, trong đó có nhiều tỉnh đạt thời gian tương đối tối ưu như Quảng Ninh đạt: 21 giờ 34 phút 12 giây đối với hàng xuất khẩu và 39 giờ 45 phút 12 giây đối với hàng nhập khẩu; Hà Tĩnh: đạt 4 ngày 12h đối với hàng nhập khẩu và đạt 1 ngày 12 giờ 52 phút đối với hàng xuất khẩu; …

- Mô hình Trung tâm hành chính công được nhiều tỉnh/thành phố tổ chức nhằm giảm thiểu thời gian đi lại và sự phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Có tỉnh như Quảng Ninh đã xây dựng Trung tâm hành chính công đến cấp huyện. Ngoài ra, tất cả các địa phương đều triển khai cơ chế một cửa và một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp.

- Theo số liệu báo cáo của các tỉnh, thành phố thì số Doanh nghiệp đăng ký doanh nghiệp qua điện tử năm 2017 đều tăng so với năm 2016.

- Các tỉnh/thành phố đều tích cực triển khai thực hiện kê khai nộp thuế điện tử (đa số đạt từ 96-100%), nhất là ở các địa phương như Đồng Nai, Quảng Trị, Gia Lai (đều đạt 100%), Bình Thuận (99,84%), TP. Hồ Chí Minh (99,37%), Cần Thơ (99,51%), Hưng Yên (99,6%), Hà Tĩnh (99%).

- Việc tổ chức đối thoại giữa các cấp chính quyền với doanh nghiệp được đa số các địa phương quan tâm. Các hoạt động đối thoại, gặp mặt doanh nghiệp (một chỉ tiêu quan trọng được giao trong Nghị quyết 35) được thực hiện thường xuyên tại các tỉnh, thành phố trong cả nước. Theo khảo sát của VCCI, 57% doanh nghiệp cho biết các tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp hoạt động có tổ chức các buổi gặp mặt, đối thoại công khai với doanh nghiệp, 58% cho biết các tỉnh, thành phố có thành lập và công khai đường dây nóng, hỏi đáp trực tuyến trên cổng thông tin điện tử để tiếp nhận phản ánh, hướng dẫn, giải đáp cho doanh nghiệp.

Nhiều địa phương đã có nhiều sáng tạo trong tổ chức đối thoại với doanh nghiệp như: tổ chức đối thoại loại theo loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp FDI theo từng nước), đối thoại trên truyền hình… Đặc biệt mô hình “cà phê doanh nhân” được nhiều tỉnh quan tâm tổ chức nhằm tạo không khí thân thiện giữa chính quyền và doanh nghiệp trong đối thoại và giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.

1.2.2. Tồn tại, hạn chế

- Công tác cải cách thủ tục hành chính mặc dù đã được thực hiện tốt nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, nhà đầu tư. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức làm công tác giải quyết thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, nhà đầu tư có trình độ, năng lực còn hạn chế; tình hình gây phiền hà, những nhiễu còn diễn ra, gây bức xúc cho doanh nghiệp.

- Một số UBND các tỉnh chưa đảm bảo tổ chức đối thoại với doanh nghiệp công khai định kỳ ít nhất hai lần/năm.

- Các địa phương đã quan tâm hơn đến việc lấy ý kiến doanh nghiệp góp ý các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của địa phương, tuy nhiên mới phổ biến hình thức lấy ý kiến trên website của tỉnh, ngành, chưa đa dạng hóa các hình thức lấy ý kiến đóng góp của doanh nghiệp.

- Tình trạng doanh nghiệp than phiền về việc các thủ tục hành chính chậm trễ, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp vẫn còn nhiều. Nhiều địa phương vẫn chưa thực hiện đúng yêu cầu thanh tra, kiểm tra 1 lần/năm như Nghị quyết 35 đã đề ra. Việc doanh nghiệp một năm phải tiếp 6-7 đoàn thanh tra, kiểm toán, chưa kể các đợt kiểm tra không chính thức. Kết quả khảo sát của VCCI cho thấy có 37% số doanh nghiệp thuộc diện khảo sát được thanh tra, kiểm tra trong năm 2016. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 13,8% doanh nghiệp bị kiểm tra từ 4 trở lên trong năm 2016. Trong những doanh nghiệp có từ 2 cuộc kiểm tra trở lên, có 52,4% lượt doanh nghiệp cho rằng nội dung của các cuộc kiểm tra có những nội dung giống nhau. Đáng chú ý là các đợt kiểm tra chuyên ngành, nhất là đối với DN chế biến thực phẩm đang trở thành gánh nặng do phải chịu giám sát của nhiều bộ ngành Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương và các cấp chính quyền địa phương. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các cần tăng cường việc kế thừa kết quả kiểm tra giữa các cơ quan để giảm bớt sự chồng chéo trong nội dung kiểm tra.

- Mặc dù pháp luật quy đinh doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm và điều kiện kinh doanh chỉ được quy định trong văn bản từ cấp Nghị định của Chính phủ trở lên, tuy nhiên vẫn còn tình trạng có địa phương cấp đăng ký kinh doanh nhưng giới hạn điều kiện theo ngành nghề, địa điểm kinh doanh theo vào quyết định của UBND.

- Về thực hiện mục tiêu đến năm 2020 có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả: một số tỉnh còn nhẫm lẫn giữa chỉ tiêu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả với chỉ tiêu đăng ký thành lập doanh nghiệp mới. Nhiều địa phương trên địa bàn gặp khó khăn và lúng túng đối với mục tiêu gia tăng gấp đôi số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn. Nhất là các tỉnh có vị trí địa lý, điều kiện không thuận lợi. Tại các tỉnh này số lượng doanh nghiệp hoạt động thường ít, dân cư thưa thớt và yếu tố thu hút đầu tư không thuận lợi, trình độ cán bộ công chức còn yếu nên còn lúng túng trong việc thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.

- Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin ở mức 3, mức 4 trong giải quyết thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp còn chậm. Số lượng các thủ tục hành chính được cung cấp trực tuyến mức độ 3, 4 còn rất ít.

- Công tác cải cách việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại liên quan đến doanh nghiệp của tòa án các cấp còn chậm, kéo dài khiến doanh nghiệp ít lựa chọn phương án kiện ra tòa khi có tranh chấp. Việc tòa án giải quyết phá sản doanh nghiệp chưa nhiều và nói chung công tác thi hành án dân sự rất cần tiếp tục nâng cao về thời gian thực hiện và hiệu quả.

- Các Hiệp hội và doanh nghiệp đã có nhiều hoạt động thiết thực để triển khai Nghị quyết 35/NQ-CP và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, do việc trả lời, giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp ở một số cơ quan chức năng còn chậm, hoặc chưa thỏa đáng. Do vậy, một số doanh nghiệp vẫn có thói quen xử lý các khó khăn, vướng mắc theo con đường phi chính thức, dựa vào quan hệ.

3. Tổ chức điều tra, thống kê, tổng hợp các chi phí chính thức, không chính thức đối với doanh nghiệp, so sánh với các doanh nghiệp trong khu vực, quốc tế và đề xuất giải pháp giảm chi phí cho doanh nghiệp:

Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ban hành ngày 16/05/2016 về việc hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Chính phủ đã trực tiếp giao cho “Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức điều tra, thống kê, tổng hợp các chi phí chính thức, chi phí không chính thức đối với doanh nghiệp, so sánh với các doanh nghiệp trong khu vực, quốc tế và đề xuất giải pháp giảm chi phí cho doanh nghiệp”. Để triển khai thực hiện nhiệm vụ này, bắt đầu từ năm 2017, VCCI đã triển khai thực hiện đề án “Nghiên cứu chi phí kinh doanh đối với doanh nghiệp Việt Nam, so sánh với các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới”.

Trong khuôn khổ triển khai thực hiện đề án, VCCI đã tổ chức 02 hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp về phương pháp nghiên cứu chi phí kinh doanh và một số vấn đề về chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp đó, VCCI đã triển khai nghiên cứu nhiều chuyên đề liên quan đến cách tiếp cận nghiên cứu chi phí kinh doanh, các loại chi phí kinh doanh theo từng cách tiếp cận và triển khai khảo sát 500 doanh nghiệp. Một số kết quả chính như sau:

Qua quá trình nghiên cứu, để có thể đưa ra những giải pháp giúp giảm chi phí kinh doanh, VCCI phân chi phí kinh doanh thành ba nhóm để triển khai khảo sát và nghiên cứu như sau:

- Nhóm thứ nhất bao gồm các các chi phí tuân thủ: Chi phí này bao gồm các chi phí chính thức (bằng tiền) mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các quy định quản lý nhà nước trong chu kỳ kinh doanh, bao gồm các loại thuế, phí và lệ phí thuộc phạm vi quy định của pháp luật phí và lệ phí và các loại chi phí chính thức khác liên quan đến thủ tục cấp giấy phép đầu tư, xây dựng,... Ngoài ra, trong nhóm chi phí này còn bao gồm những loại chi phí vô hình (về thời gian, chi phí cơ hội, công sức, tinh thần,...) để thực hiện việc tuân thủ các loại thủ tục hành chính này. Các loại chi phí phát sinh vô hình này được đánh giá tương đối đầy đủ trong Báo cáo Doing Business của Ngân hàng thế giới. Nếu những khoản thuế, phí và lệ phí có thể dễ đánh giá được thì các khoản chi phí vô hình rất khó hình dung. Chẳng hạn, nếu thực hiện nếu thực hiện thủ tục hành chính mất 10 ngày và mỗi DN mất 1 người đi thực hiện ước tính chi phí khoảng 200.000/người/ngày, vậy chi phí cho khoảng 500.000 DN cho 1 thủ tục hành chính lên đến hàng trăm tỷ đồng. Đấy là chưa kể chi phí về cơ hội kinh doanh mà các doanh nghiệp mất đi khi thực hiện các thủ tục hành chính. Những loại chi phí chính thức này nhà nước có thể can thiệp trực tiếp thông qua các chính sách cắt giảm các loại chi phí hoặc đơn giản hóa các thủ tục hành chính.

- Nhóm thứ hai bao gồm các chi phí chính thức phát sinh trong quá trình kinh doanh là những chi phí liên quan đến các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình (như chi phí tiếp cận mặt bằng, chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động, chi phí vốn, chi phí logisstics,...) và được tính vào giá thành sản phẩm. Việc đánh giá mức giá của các nhân tố đầu vào, giúp giảm chi phí và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên thực tế các loại chi phí này phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường. Tuy nhiên với một số loại thị trường hàng hóa đặc biệt như thị trường đất đai, thị trường lao động thì vai trò điều tiết của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc điều chỉnh để có thể giảm các loại chi phí này phụ thuộc mạnh mẽ vào việc cải thiện thể chế kinh tế vi mô, tạo điều kiện cho các giao dịch được diễn ra thuận lợi , giúp các doanh nghiệp nhanh chóng tiến cận được các nguồn lực để kinh doanh hiệu quả. Chẳng hạn, chi phí phát sinh trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất thường rất cao và mất nhiều thời gian, làm lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp; Hay chi phí đào tạo nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp cũng cao do chế tài về hợp đồng lao động chưa đủ mạnh để đảm bảo rằng người lao động đã được doanh nghiệp đào tạo thì phải có cam kết làm việc lâu dài với doanh nghiệp.

- Nhóm thứ ba bao gồm các chi phí không chính thức (chi phí bôi trơn) mà doanh nghiệp phải chi trả để có thể tiếp cận thuận lợi hơn các nguồn lực đầu vào hay cơ hội kinh doanh đầu ra, hoặc để bớt phiền hà trong việc tuân thủ các thủ tục hành chính trong quá trình kinh doanh. Những chi phí này có thể giảm được bằng việc giảm bớt các thủ tục quy định về điều kiện kinh doanh, minh bạch hóa các chính sách và đơn giản hóa các thủ tục hành chính.

VCCI đã tổ chức khảo sát 500 doanh nghiệp để đánh giá chi phí kinh doanh và xây dựng báo cáo. Hiện quá trình khảo sát đã hoàn thành, VCCI đang phân tích và xử lý kết quả khảo sát. Dựa trên dự liệu khảo sát, kết hợp với dữ liệu thứ cấp từ các cuộc khảo sát của Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê, VCCI đang xây dựng báo cáo về chi phí kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam và so sánh với các nước trên thế giới như yêu cầu của Nghị quyết số 35/NQ-CP. Một số kết quả VCCI đã nghiên cứu cụ thể về Chi phí kinh doanh ở Phụ lục kèm theo báo cáo.

4. Xây dựng các chương trình, biện pháp khả thi để tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt vai trò là tổ chức chính trị, xã hội – nghề nghiệp của cộng đồng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và người sử dụng lao động.

Trong năm 2017, VCCI tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt vai trò là tổ chức chính trị, xã hội – nghề nghiệp của cộng đồng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và người sử dụng lao động. Tốc độ tăng trưởng bình quân đối với các hoạt động lượng hóa đạt 9,5 % so với năm 2016. Chất lượng các hoạt động tiếp tục được hoàn thiện và nâng cao, đạt kết quả toàn diện. Một số hoạt động lớn trọng tâm đã được tổ chức thành công. Vai trò, vị trí của VCCI được nâng cao, VCCI được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao nhiều nhiệm vụ quan trọng. Các hoạt động nổi bật trong các nhóm công tác như sau:

4.1. Đã tổ chức thành công các sự kiện trong năm APEC 2017.

- Trong Tuần lễ cấp cao APEC 2017, VCCI đã có sáng kiến tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh Việt Nam (VBS) trong khuôn khổ tuần lễ cấp cao APEC 2017 với sự chủ trì của Chủ tịch VCCI, Chủ tịch APEC CEO SUMMIT Vũ Tiến Lộc; sự tham dự và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc; sự tham dự của Giám đốc điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới Philipp Rosler và Bà Victoria Kwakwa - Phó Chủ tịch Ngân hàng thế giới khu vực Đông Á và Thái Bình Dương cùng gần 2.000 lãnh đạo tập đoàn, doanh nghiệp hàng đầu trong nước và quốc tế,  trong đó có 1100 đại biểu nước ngoài, 900 đại biểu trong nước. Hội nghị đã tạo cơ hội cho các  doanh nghiệp Việt Nam tham dự tiếp xúc trực tiếp và thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư với các lãnh đạo và tổng giám đốc doanh nghiệp hàng đầu khu vực, đồng thời, cũng giúp các nhà đầu tư quốc tế tìm hiểu về tiềm năng hợp tác đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Với chủ đề “Việt Nam- Đối tác kinh doanh tin cậy”, VBS đã tập trung bàn về cơ hội kinh doanh tại Việt Nam. VBS bao gồm 3 phiên, có chủ đề lần lượt là: "Việt Nam – Đổi mới toàn diện vì phát triển bền vững"; "Việt Nam – Điểm đến thân thiện với doanh nghiệp" và các hội thảo chuyên đề, với chủ đề bao gồm: Nông nghiệp bền vững, Tài chính cho phát triển, Y tế và giáo giục, Cơ sở hạ tầng, Đặc khu kinh tế và tiềm năng du lịch, Khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Đây là hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh đầu tiên của Việt Nam và cũng là hội nghị lớn nhất từ trước đến nay.

- Chủ trì phối hợp với Ban Thư ký quốc gia APEC tổ chức Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp (APEC CEO SUMMIT) trong ba ngày từ ngày 8-10/11. Đây là sự kiện quan trọng nhất của các doanh nghiệp trong Tuần lễ cấp cao APEC 2017. Tham dự Hội nghị có Chủ tịch nước Trần Đại Quang, lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương; lãnh đạo các tổ chức quốc tế lớn như Ngân hàng thế giới (WB), Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) với hơn 2100 đại biểu tham dự, trong đó có 1200 đại biểu nước ngoài, 900 đại biểu trong nước. Đây là một hội nghị lớn nhất trong lịch sử tổ chức các hội nghị APEC CEO Summit (vượt xa con số 1500 đại biểu của APEC CEO Summit tại Trung Quốc vào năm 2014,  1000 đại biểu tại Nhật (2010), 1000 đại biểu tại Hoa Kỳ (2011), 700 đại biểu tại Nga (2012), 1000 đại biểu tại In-đô-nê-xia (2013), 800 đại biểu tại Phi-lip-pin (2015) và gần đây nhất tại Peru (2016) với 1200 đại biểu). Phát biểu khai mạc Hội nghị, Chủ tịch nước Trần Đại Quang khẳng định APEC là cơ chế hợp tác hiệu quả nhất trong việc phát huy vai trò của doanh nghiệp, đưa châu Á - Thái Bình Dương trở thành động lực của tăng trưởng và liên kết toàn cầu và là vườn ươm của các ý tưởng mới cho tương lai. Ngoài ra, nhiều nguyên thủ của các nền kinh tế hàng đầu thế giới cũng tham gia phát biểu với cộng đồng doanh nghiệp APEC như: Tổng thống Mỹ, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Thủ tướng Úc, Thủ tướng Malaysia, Thủ tướng New Zealand..... Với chủ đề “Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung”, Hội nghị đã tập trung thảo luận những thách thức đặt ra đối với các chính phủ và doanh nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của chính phủ và các công ty trong việc bảo đảm người lao động được đào tạo bài bản và có khả năng đảm nhận công việc trong tương lai. Các đại biểu cũng thảo luận dưới nhiều lăng kính khác nhau về các giải pháp xử lý mối quan hệ giữa tự động hóa và bảo đảm việc làm trên toàn cầu. Hội nghị cũng đưa ra các giải pháp khuyến nghị:  đào tạo và giáo dục cần phản ánh nhu cầu của nền kinh tế;  các chính phủ cần xây dựng hệ thống an sinh xã hội cho người thất nghiệp; khuyến khích các doanh nghiệp cải cách để bảo vệ người lao động trước sự phát triển mạnh mẽ của quá trình tự động hóa.

Song song với chương trình Hội nghị chính, VCCI đã tăng cường xúc tiến các cuộc gặp giữa đại diện Chính phủ và Lãnh đạo doanh nghiệp, hỗ trợ tiếp xúc doanh nghiệp song phương. Cụ thể, VCCI đã tổ chức các cuộc gặp song phương giữa Thủ tướng và đoàn lớn trong đó có các tập đoàn hàng đầu của Hoa Kỳ, Trung Quốc (7/11); cuộc tiếp xúc giữa Chủ tịch nước Trần Đại Quang với Liên minh doanh nghiệp Hoa Kỳ APEC (8/11); hỗ trợ các địa phương gặp gỡ với các tổ chức quốc tế, các đoàn doanh nghiệp lớn của khu vực. Các hoạt động của doanh nghiệp trong tuần lễ cấp cao APEC diễn ra sôi nổi và đạt hiệu quả cao. Trong giai đoạn này, 121 thỏa thuận với giá trị hơn 20 tỷ USD đã được ký kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác quốc tế.

Cũng trong năm APEC 2017, VCCI đã chủ trì, phối hợp tổ chức một số hoạt động quan trọng khác:

- Đã tổ chức Diễn đàn Khởi nghiệp APEC 2017 với nội dung Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới và sáng tạo nhằm giúp các doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu từ 11-12/9/2017 tại TP Hồ Chí Minh. Đây là sáng kiến đề xuất của VCCI với sự đồng hành của Công ty Microsoft, Công ty TNHH Phát triển Phú Mỹ Hưng, Quỹ Châu Á – Thái Bình Dương  (Canada)... nhằm tạo cơ hội cho các nền kinh tế APEC chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất sáng kiến nhằm xây dựng khối APEC chia sẻ lợi ích chung, phát triển bền vững. Diễn đàn Khởi nghiệp APEC 2017 tập trung thảo luận những nội dung nhằm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp như: tạo điều kiện cho các MSMEs đổi mới, sáng tạo, xây dựng các cơ hội để hội nhập khu vực và quốc tế, tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu ngay từ khi khởi nghiệp; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xã hội một cách bền vững và thân thiện với môi trường.

- Trong khuôn khổ các sự kiện của tuần lễ Diễn đàn Phụ nữ và Kinh tế APEC 2017, VCCI đã phối hợp tổ chức “Đối thoại Công - Tư về Phụ nữ và Kinh tế trong APEC -  Diễn đàn Doanh nhân nữ: Phụ nữ là Doanh nhânthu hút được gần 600 đại biểu tham dự. Thông qua diễn đàn, các doanh nhân nữ tham dự đã có cơ hội thảo luận cùng lãnh đạo các nền kinh tế, các tổ chức quốc tế về các giải pháp nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ, thúc đẩy và hỗ trợ doanh nhân nữ hội nhập và tham gia đầy đủ vào thị trường toàn cầu, trên cơ sở đó xây dựng khuyến nghị chính sách và nhân rộng các mô hình, các kinh nghiệm thành công nhằm tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và tăng trưởng bao trùm ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

4.2. Công tác góp ý xây dựng pháp luật chính sách, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp theo tinh thần của các Nghị quyết 19, 35, Chỉ thị 26 của VCCI tiếp tục đạt nhiều kết quả quan trọng.

Nhìn chung, hoạt động xây dựng chính sách pháp luật của VCCI được các doanh nghiệp hưởng ứng nhiệt tình và đánh giá tích cực. Đồng thời, VCCI đã thể hiện rõ vai trò và vị thế là tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp, có tiếng nói thuyết phục tới các cơ quan Đảng, Nhà nước. VCCI đã tham gia góp ý, xây dựng nhiều chính sách pháp luật quan trọng để phát triển kinh tế xã hội và doanh nghiệp như:  3 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế và về cơ cấu lại, đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông qua ngày 12/6/2017 được coi là những chính sách trụ cột nhằm hỗ trợ DNNVV phát triển, đồng thời khuyến khích các hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành doanh nghiệp, góp phần đạt mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020; Tham gia tích cực trong quá trình soạn thảo Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 06/06/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp

Ngoài ra, nhiều quy định pháp luật sau khi tiếp thu góp ý của VCCI đã được điều chỉnh một cách tích cực, có nhiều sửa đổi quan trọng theo hướng thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, dỡ bỏ nhiều rào cản tiếp cận thị trường, phân biệt quy mô doanh nghiệp, dỡ bỏ các điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính bất hợp lý. Ví dụ: Nghị định về kinh doanh khí, Nghị định về xuất khẩu gạo, Nghị định hướng dẫn Luật an toàn thực phẩm, Nghị định về hoạt động in, Nghị định về điều kiện kinh doanh vận tải ô tô...

Thông qua các hoạt động góp ý xây dựng chính sách pháp luật; tổng hợp kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp và theo dõi tình hình giải quyết của các cơ quan chức năng của trung ương và các địa phương; Theo dõi việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp của các địa phương; Chủ trì hoặc phối hợp tổ chức các hoạt động đối thoại của lãnh đạo chính phủ, các bộ, ngành, lãnh đạo các địa phương với cộng đồng doanh nghiệp như: Hội nghị Thủ tướng gặp doanh nghiệp; Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF); Đối thoại giữa lãnh đạo các tỉnh với doanh nghiệp; Đối thoại doanh nghiệp với cơ quan Thuế - Hải quan ở trung ương và các tỉnh, ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của VCCI là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và người sử dụng lao động tại Việt Nam.

Đặc biệt, sau một thời gian dài bền bỉ nghiên cứu việc áp dụng các cơ chế tạo thuận lợi thương mại, VCCI  và  Bộ Tài chính đã phối hợp đề xuất và  ngày 20/09/2017, tại Phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội thứ 14, Ủy ban thường vụ đã thông qua tờ trình của Chính phủ về việc Việt Nam gia nhập Công ước Istanbul, thực hiện cơ chế sổ tạm quản ATA đối với hàng hóa tạm nhập – tái xuất, tạm xuất tái nhập. Chứng từ sổ tạm quản ATA được cấp để thay thế cho chứng từ tờ khai hải quan khi làm thủ tục nhập hoặc xuất khẩu tại Việt Nam hoặc tại các quốc gia tham gia Công ước. Chính phủ sẽ giao cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) là cơ quan bảo lãnh, thực hiện việc cấp sổ tạm quản ATA.

Hoạt động khảo sát, nghiên cứu và công bố các báo cáo về kinh tế và doanh nghiệp tiếp tục được nâng cao chất lượng và uy tín, trở thành kênh tham khảo quan trọng của các cơ quan nhà nước, chuyên gia, doanh nghiệp và người dân như: Báo cáo Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hàng năm, Báo cáo doanh nghiệp thường niên hàng năm; Báo cáo nghiên cứu “Đánh giá cải cách thủ tục hành chính Hải quan: Mức độ hài lòng của doanh nghiệp năm 2016”; Báo cáo về chi phí kinh doanh của doanh nghiệp với sáu chuyên đề liên quan đến lao động, tiếp cận cơ sở hạ tầng, logistics; Báo cáo, đề xuất và khuyến nghị giải pháp hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện liêm chính trong kinh doanh...

4.3. Công tác xúc tiến thương mại, đầu tư; đào tạo và phát triển doanh nghiệp, tôn vinh doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh:

Đã tổ chức được 570 cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm, gặp gỡ doanh nghiệp với sự tham dự của 52.000 lượt doanh nghiệp nhằm tìm kiếm đối tác và cơ hội hợp tác kinh doanh – đầu tư với các doanh nghiệp trong và ngoài nước; Tổ chức được gần 1.620 khoá đào tạo cho hơn 82.000 lượt doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu là quản trị doanh nghiệp cơ bản và cao cấp; kỹ năng quản lý; marketing; thương mại điện tử, thanh toán quốc tế; phát luật thương mại Việt Nam và quốc tế…

Hoạt động tôn vinh, khen thưởng doanh nghiệp tiếp tục được tăng cường với nhiều hoạt động đa dạng nhằm thực hiện các chính sách quan trọng của Đảng, nhà nước như: Nghị quyết 09 về xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân; Ba Nghị quyết của Hội nghị trung ương lần thứ 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; về cơ cấu lại, đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.... Tiếp tục duy trì tổ chức các giải thưởng đã khẳng định được uy tín của VCCI như: Giải Nữ doanh nhân Việt Nam tiêu biểu – Cúp Bông Hồng vàng; Bảng xếp hạng Top 100 doanh nghiệp phát triển bền vững Việt Nam 2017 

Năm 2017, mặc dù không còn được ngân sách Nhà nước hỗ trợ từ hai năm qua, VCCI vẫn tiếp tục duy trì và phát huy tốt các hoạt động của các Diễn đàn/Hội đồng doanh nghiệp như: Việt Nam – EU,  Việt Nam – Mỹ Latinh, Việt Nam – Ấn Độ, Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Châu Phi – Trung Đông... trên nền tảng đã được xây dựng trong nhiều năm trở lại đây, góp phần tăng cường mở rộng hơn quan hệ hợp tác giữa cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam với cộng đồng doanh nghiệp trên thế giới trong nhiều lĩnh vực: thương mại, đầu tư, trao đổi khoa học, kĩ thuật, du lịch và văn hoá.

Làm tốt vai trò đại diện, đầu mối hướng dẫn cộng đồng doanh nghiệp trong các vấn đề thương mại quốc tế, đặc biệt là các Hiệp định thương mại tự do. Hỗ trợ doanh nghiệp trong các vấn đề liên quan đến phòng vệ thương mại liên quan đến 16 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại ở trong nước và nước ngoài. Đồng thời hướng dẫn, tư vấn cho hàng trăm lượt doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến nội dung này. Đồng thời cung cấp thông tin, đào tạo, tư vấn và các hỗ trợ khác về hội nhập

4.4. Công tác đại diện giới sử dụng lao động:

Trong năm 2017, VCCI tiếp tục tham gia vào quá trình xây dựng chính sách hoàn thiện Bộ máy tổ chức của cơ quan đại diện Người sử dụng Lao động tại Việt Nam. Đồng thời, đóng góp ý kiến xây dựng nhiều chính sách pháp luật lao động liên quan khác. Tham gia vào hoạt động của Ủy ban Quan hệ lao động Quốc gia với vai trò là cơ quan đại diện người sử dụng lao động. Tham gia vào các hoạt động của Hội đồng tiền lương Quốc gia với vai trò là Phó Chủ tịch Hội đồng Tiền lương Quốc gia, tổ chức trao đổi, họp nhóm kỹ thuật và thống nhất về phương án chung về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng năm 2017,  xây dựng phương án tăng lương tối thiểu vùng 2018. Nhìn chung, phương án tăng lương được thống nhất sau khi đàm phán đã nhận được sự đồng thuận tương đối cao của cộng đồng doanh nghiệp và đại diện người lao động.

Tiếp tục tham gia nghiên cứu, đóng góp ý kiến và trình Chính phủ phê duyệt các nghị định, thông tin hướng dẫn thực hiện Bộ luật lao động Việt Nam và một số công ước quốc tế. Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức quốc tế là đại diện cho giới sử dụng lao động như: Chương trình phối hợp với NHO, MOLISA, VGCL... triển khai chương trình hợp tác nhằm tăng cường năng lực cho doanh nghiệp trong việc xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa tại nơi làm việc...

4.5. Công tác phát triển tổ chức, bảo đảm cho hoạt động của cơ quan:

Dưới sự chỉ đạo sát sao của Ban Thường trực, đồng thời, phát huy tính năng động, sáng tạo của các đơn vị, công tác xây dựng kế hoạch năm 2017 tiếp tục được đối mới theo hướng nâng cao chất lượng và tính khả thi của các chương trình, dự án. Hầu hết các đơn vị đều hoàn thành kế hoạch và vượt mức kế hoạch về mặt tài chính. Các đơn vị hoàn thành vượt mức kế hoạch là các đơn vị có nhiều tìm tòi, sáng tạo và thực hiện hiệu quả trong việc tổ chức các hoạt động sử dụng kinh phí tự cân đối.

Công tác tổng hợp, thông tin nội bộ được duy trì thường xuyên và nâng cao về chất lượng. Công tác tổ chức, cán bộ và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ- CNVC đảm bảo thực hiện đúng các tiêu chuẩn, chế độ.

Trong năm 2017, VCCI đã bảo đảm được cân đối thu chi, nguồn tài chính phục vụ nhu cầu mua sắm, đổi mới trang thiết bị tài sản cố định, đầu tư xây dựng cơ bản.

  1. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình dự án hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chương trình nâng cao năng lực của các hiệp hội doanh nghiệp.

 5.1. Hoạt động đào tạo, phát triển doanh nghiệp

Tổ chức được gần 1620 khoá đào tạo cho hơn 82.000 lượt doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu là quản trị doanh nghiệp cơ bản và cao cấp; kỹ năng quản lý; marketing; thương mại điện tử, thanh toán quốc tế; phát luật thương mại Việt Nam và quốc tế… Đồng thời kết hợp cung cấp thông tin và tư vấn cho doanh nghiệp cũng như cá nhân có yêu cầu về các vấn đề đăng ký kinh doanh, pháp luật quốc tế, giới thiệu sản phẩm, thị trường, đối tác…

Hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp 2017 tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều nội dung thiết thực:

Festival Khởi nghiệp 2017 – sự kiện quan trọng của Chương trình tổng thể về hỗ trợ Khởi nghiệp hàng năm được tổ chức ngày 6/01/2017 tại Hà Nội nhằm tôn vinh và phát huy phong trào lập nghiệp bằng con đường kinh doanh trong thanh niên – sinh viên. Tại Festival Khởi nghiệp 2017 đã trao giải cho 6 dự án xuất sắc nhất Cuộc thi Khởi nghiệp 2016; tổ chức Lễ phát động Chương trình Khởi nghiệp 2017; các hoạt động bên lề như trưng bày các sản phẩm triển khai thực tế của các dự án khởi nghiệp. Đặc biệt, Festival Khởi nghiệp 2017 đã tạo điều kiện cho các dự án tham gia chương trình đạt giải có cơ hội chào đầu tư cho dự án của mình. Đây thật sự là cơ hội lớn để các nhà đầu tư có thể tìm kiếm những dự án theo nhu cầu và cũng là cơ hội cho các bạn trẻ hiện thực hóa ý tưởng của mình.

Phối hợp với Công ty Microsoft Việt Nam tổ chức 4 “Diễn đàn cơ hội việc làm, phát triển nghề nghiệp và thúc đẩy tinh thần kinh doanh” và cuộc thi “Doanh nhân tập sự 2017 – Kỹ năng nghề nghiệp thế kỷ 21”. Sự kiện này đánh dấu bước kế tiếp trong chuỗi hoạt động của dự án “Youthspark Career Readiness – Tăng cường kỹ năng làm việc, khởi nghiệp cho thanh niên và kết nối với doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Dự án nhằm hỗ trợ thanh niên gia nhập thị trường lao động, những thanh niên thiếu cơ hội được đào tạo thông qua các hoạt động đào tạo về các kỹ năng làm việc, kỹ năng về công nghệ thông tin, khoa học máy tính và kỹ năng kinh doanh để phát triển sự nghiệp. Năm 2017, VCCI đã tổ chức được 27 khóa đào tạo với gần 700 học viên tham gia, trang web của dự án đã cập nhật 1.120 thông tin việc làm và 120 tin tức, thu hút 352.447 lượt truy cập.

Về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV):

Tích cực tham gia góp ý dự thảo Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời triển khai các chương trình, đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng lực cạnh tranh: Đề án “Hỗ trợ DNNVV để phát triển các cụm liên kết ngành trong chuỗi giá trị khu vựng nông nghiệp nông thôn”, Chương trình “Phổ cập hiểu biết công việc kinh doanh, hỗ trợ kinh doanh cá thể phát triển thành doanh nghiệp, tăng nhanh số lượng doanh nghiệp vừa và lớn”... với nhiều hoạt động như hội thảo, đào tạo, tư vấn về lập kế hoạch kinh doanh, về chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực quản trị, năng lực lập kế hoạch và năng lực cạnh tranh. Trong đó, “Ngày hội kết nối doanh nghiệp” nhằm phát triển các cụm liên kết ngành trong chuỗi giá trị khu vực nông nghiệp nông thôn, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác tham gia và phát triển mạng lưới liên kết trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ đã có hơn 300 doanh nghiệp nhỏ và vừa tham dự, một số doanh nghiệp đã tiếp cận được các gói giải pháp tài chính phù hợp.

Về hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững:

Tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ III của Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD) và bầu ra Ban điều hành cho nhiệm kỳ mới. Hội đồng đã có những đóng góp quan trọng trong phong trào doanh nghiệp phát triển bền vững thông qua những hoạt động đa dạng. Đặc biệt, VBCSD đã tạo những diễn đàn cho các doanh nghiệp học hỏi, chia sẻ thông tin, kiến thức, mở rộng cơ hội hợp tác đầu tư kinh doanh. Hội đồng đã tham gia tích cực vào việc xây dựng và triển khai Nghị quyết 19 của Chính phủ. Đồng thời có những đóng góp quan trọng trong kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh.

Tổ chức Diễn đàn Doanh nghiệp Phát triển Bền vững Việt Nam (VCSF) lần thứ IV với chủ đề “Nhân rộng những mô hình kinh doanh giúp giải quyết các thách thức Phát triển Bền vững” với sự tham dự của khoảng 350 đại biểu đại diện cho các cơ quan Chính phủ, các bộ, ngành, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, các đại sứ quán, các tổ chức quốc tế, các viện nghiên cứu, cũng như các cơ quan thông tấn, báo chí trong, ngoài nước. Diễn đàn tập trung thảo luận về: Sự cần thiết của việc thúc đẩy và nhân rộng các giải pháp/mô hình kinh doanh sáng tạo để thực hiện thành công các Mục tiêu phát triển bền vững trong chương trình Nghị sự 2030; Huy động sự tham gia hiệu quả của khu vực tư nhân trong việc thực hiện các cam kết của Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; Chia sẻ kinh nghiệm nhân rộng các mô hình kinh doanh bền vững… Diễn đàn cũng là dịp để các nhà điều hành doanh nghiệp trực tiếp đối thoại với lãnh đạo Chính phủ, qua đó giúp tăng cường hỗ trợ từ phía Chính phủ đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tại Diễn đàn, VCCI đã khẳng định sẽ triển khai chương trình tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp triển khai nền kinh tế tuần hoàn (VCCE), khuyến khích các doanh nghiệp góp phần xây dựng một nền kinh tế phi rác thải, tạo công ăn việc làm cho thị trường lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực tư tại Việt Nam, cũng như nắm bắt được cơ hội kinh doanh trị giá gần 5 tỷ đô la Mỹ do nền kinh tế tuần hoàn mang lại. Đồng thời, VCCI cũng sẽ hợp tác với Trung tâm Thương mại Quốc tế (International Trade Center) áp dụng Bản đồ phát triển bền vững-Sustainability Map, bộ hệ thống tiêu chuẩn để hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam.

Phối hợp với với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tổ chức Lễ phát động chương trình đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp bền vững năm 2017. Chương trình đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp bền vững năm 2017 nhằm tôn vinh các doanh nghiệp phát triển theo hướng bền vững, đồng thời góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và lợi ích của phát triển bền vững doanh nghiệp của cộng đồng cũng như của xã hội. Qua đó, thúc đẩy kinh doanh theo hướng bền vững, tăng cường trao đổi theo hướng phát triển bền vững giữa các bên có liên quan tại Việt Nam bao gồm: Cộng đồng doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức dân sự. Sau lễ phát động chương trình tại Hà Nội, chương trình sẽ tiếp tục được phát động tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Tổ chức Diễn đàn trách nhiệm xã hội với chủ đề “Vì sao doanh nghiệp yêu rừng” tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, với mục tiêu nhấn mạnh sự cần thiết của việc xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước và khu vực tư nhân trong việc thúc đầy các hoạt động hỗ trợ phát triển và bảo vệ rừng bền vững. Đồng thời, nâng cao nhận thức cộng đồng doanh nghiệp về vai trò của rừng trong hoạt động kinh doanh với quan điểm rừng có liên hệ mật thiết tới tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Tại diễn đàn này, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia các cam kết của Liên Hợp Quốc thông qua Chương trình Giảm phát thải từ mất rừng và quy thoái rừng (UN - REDD Việt Nam).

5.2. Hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập quốc tế

Hỗ trợ doanh nghiệp về các Hiệp định thương mại tự do: Với vai trò đại diện, đầu mối hướng dẫn cộng đồng doanh nghiệp trong các vấn đề thương mại quốc tế, đặc biệt là các Hiệp định thương mại tự do theo Quyết định 06/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong năm 2017, Trung tâm WTO và Hội nhập của VCCI tiếp tục là đầu mối thông tin và tư vấn lớn nhất cho doanh nghiệp về WTO và các Hiệp định thương mại quan trọng mà Việt Nam đang tham gia với các hoạt động nổi trội sau: (i) xây dựng 02 Khuyến nghị chính sách là “Các kịch bản TPP sau khi Hoa Kỳ rút khỏi TPP và định hướng hành động phù hợp của Việt Nam” và “Đề xuất phương án đàm phán cho TPP11 chuẩn bị cho vòng đàm phán APEC tại Đà Nẵng; (ii) soạn thảo 03 bộ tài liệu phân tích, phổ biến tuyên truyền về các nội dung cam kết EVFTA trong các Chương liên quan tới doanh nghiệp; (iii) xuất bản 04 ấn phẩm về “Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)/Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)” trong các lĩnh vực đầu tư, sở hữu trí tuệ, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, mở cửa dịch vụ cho đầu tư nước ngoài; (iv) thực hiện 08 bản Góp ý - Bình luận về các vấn đề hội nhập.

Hỗ trợ doanh nghiệp trong các vấn đề liên quan đến phòng vệ thương mại: Đây là mảng hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong những vấn đề nóng về pháp lý liên quan đến hội nhập kinh tế, đặc biệt là việc sử dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ tại Việt Nam để bảo vệ lợi ích của các ngành sản xuất trong nước trước hàng nhập khẩu nước ngoài. Trong năm 2017, Trung tâm WTO và Hội nhập đã thực hiện hỗ trợ cho các hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến 16 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại ở trong nước và nước ngoài. Đồng thời hướng dẫn, tư vấn cho hàng trăm lượt doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến nội dung này.

Cung cấp thông tin, đào tạo, tư vấn và các hỗ trợ khác về hội nhập: 03 cổng thông tin là đầu mối cung cấp thông tin pháp lý về hội nhập lớn nhất Việt Nam cho các hiệp hội, doanh nghiệp đã có tổng cộng hơn 46 triệu lượt truy cập, với trung bình 10 tin bài được đăng mới mỗi ngày; trong năm 2017, VCCI đã biên soạn và phát hành 18 ấn phẩm hội nhập phục vụ doanh nghiệp; thực hiện hàng chục lượt tư vấn doanh nghiệp qua điện thoại, email….

5.3. Hoạt động nâng cao năng lực cho các Hiệp hội doanh nghiệp

Nhằm xúc tiến hoạt động đẩy mạnh hợp tác với các Hiệp hội doanh nghiệp nhằm nâng cao hợp tác, nắm bắt thông tin và kiến nghị về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đã tổ chức 4 buổi giao ban Hiệp hội doanh nghiệp: khu vực phía Bắc Trung bộ, Trung – Tây Nguyên, Nam Trung bộ, và khu vực phía Nam nhằm đánh giá kết quả 1 năm thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, đồng thời tổng hợp ý kiến, vướng mắc của các Hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp chuẩn bị cho Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp 2017. Tại các Hội nghị, đại diện các Hiệp hội, doanh nghiệp đã tập trung đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 35 từ góc nhìn của doanh nghiệp và phản ánh nhiều khó khăn, vướng mắc đề nghị Chính phủ và chính quyền các cấp hỗ trợ, giải quyết. Đồng thời đóng góp nhiều ý kiến về cải cách cơ chế chính sách, thủ tục hành chính, lãi suất vay vốn ... và đề nghị các hiệp hội cũng như VCCI cần có tiếng nói mạnh mẽ hơn để chuyển tải những tâm tư, nguyện vọng của doanh nghiệp đến Chính phủ và chính quyền các cấp.

Tổ chức tập huấn cho các Hiệp hội doanh nghiệp khu vực Miền Trung, Tây Nguyên về phương pháp xây dựng chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp quận/huyện, sở/ngành (DDCI), đồng thời chia sẻ thực tiễn tốt trong triển khai việc DDCI ở một số địa phương với sự tham gia của đại diện một số lãnh đạo cấp sở và Hiệp hội doanh nghiệp các tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Thuận, Bình Phước, Gia Lai. Hội thảo đã nghe và tập trung đánh giá, phân tích các thực tiễn triển khai đánh giá DDCI của Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, trong đó, có tỉnh do Hiệp hội doanh nghiệp thực hiện đánh giá như Vĩnh Phúc, Tuyên Quang; có tỉnh do một đơn vị cấp sở triển khai như: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh. Đa số các tỉnh do các đơn vị chủ trì trực tiếp thực hiện khảo sát, đánh giá nhưng có tỉnh lại thuê tư vấn độc lập triển khai khảo sát và xây dựng báo cáo như Quảng Ninh. Tuy khác nhau về mô hình triển khai đánh giá DDCI nhưng kết quả chung ở các tỉnh đã triển khai đánh giá DDCI là Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) có sự cải thiện rõ nét. Công tác hỗ trợ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp triển khai các hoạt động đầu tư, kinh doanh, chất lượng phục vụ doanh nghiệp của của các cơ quan chức năng được từng bước nâng cao hàng năm. Từ đó, môi trường đầu tư kinh doanh nói chung tại các tỉnh này được cải thiện theo đúng tinh thần Chính phủ đã đề ra tại Nghị quyết 35/NQ-CP  ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 06/06/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp

Tổ chức Hội thảo “Vai trò và phương pháp rà soát góp ý xây dựng chính sách pháp luật đối với các hiệp hội” nhằm tăng cường vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật kinh doanh và nhằm nâng cao vai trò và phương pháp rà soát góp ý xây dựng chính sách pháp luật đối với các Hiệp hội/Hội doanh nghiệp.

  1. Phát động phong trào “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam” và vận động doanh ngiệp nói không với tiêu cực

6.1. Vận động doanh nghiệp nói không với tiêu cực

Trong năm 2017, VCCI đã tổ chức 15 hội thảo về chủ đề “Chính phủ và doanh nghiệp cùng hợp tác hướng tới Liên minh Liêm chính tại Việt Nam”, “Thúc đẩy xây dựng môi trường kinh doanh liêm chính tại Việt Nam thông qua hành động tập thể”... Đưa 15 báo cáo về Phát triển vững và nâng cao năng lực cạnh tranh, năng suất lên các báo, tạp chí. Hoàn thiện đầy đủ trang thông tin điện tử kdlc.vn về hướng dẫn doanh nghiệp thực hành bộ công cụ phòng ngừa tham nhũng, phòng ngừa rủi ro, tự nâng cao kỹ năng quản trị doanh nghiệp và tương tác chia sẻ kinh nghiệm.

Điều tra, khảo sát, nghiên cứu xây dựng Báo cáo, đề xuất và khuyến nghị giải pháp hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện liêm chính trong kinh doanh. Báo cáo đã tập hợp ý kiến từ hơn 1100 lượt doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) về vấn đề Thúc đẩy thực hiện Liêm chính trong Kinh doanh. Từ đó, nghiên cứu, tổng hợp một số đề xuất, khuyến nghị gồm các giải pháp nhằm hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện liêm chính trong kinh doanh. Các khuyến nghị này bao gồm: Tiến hành khởi xướng Sáng kiến Thực hành Liêm chính (GBIA) để thúc đẩy liêm chính trong kinh doanh, trong đó nhấn mạnh sư hợp tác của khu vực doanh nghiệp với cơ quan chính phủ.

6.2. Phát động phong trào “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam”

Trong nhiều năm qua, VCCI quan tâm và thường xuyên chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động các doanh nghiệp nâng cao chất lượng hàng hóa, hạ giá thành nhằm chinh phục trước hêt thị trường trong nước với hơn 90 triệu dân dưới nhiều hình thức phong phú thông qua hội nghị, hội thảo, toạ đàm và hệ thống thông tin của VCCI. Ngoài ra, hàng năm VCCI còn tiếp tục phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nghiệp đẩy mạnh tuyên truyền về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”

Hiện nay, VCCI đang xây dựng Đề án để triển khai cuộc vận động “ Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam”  mạnh mẽ hơn trong năm 2018 và các năm tiếp theo. Nội dung đề án tập trung vào một số vấn đề:

- Nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp về việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm đặc biệt là nghiên cứu về thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam để phát triển các dòng sản phẩm phù hợp với thị trường trong nước

- Hỗ trợ, thiết lập các kênh phân phối hàng Việt Nam chất lượng cao đến tay người tiêu dùng, đặc biệt là thị trường nông thôn

  1. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

Để tiếp tục triển khai Nghị quyết 35/NQ-CP và Chỉ thị 26/CT-Ttg trong thời gian tới, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam  đề xuất, kiến nghị một số nội dung cụ thể sau đây:

  1. Cần có các giải pháp để tập trung tăng năng suất của nền kinh tế với các giải pháp cụ thể đó là:

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế tế vĩ mô đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực bình đẳng, đặc biệt là vốn và đất đai. Theo đó cần chú trọng đến việc xây dựng chính sách thực thi Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ cũng như Luật cạnh tranh một cách phù hợp, đảm bảo khắc phục được những cản trở do quy mô nhỏ gây ra.

- Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp trong việc xây dựng các quy hoạch phát triển các vùng kinh tế, ngành nhằm khai thác lợi thế cạnh tranh của các địa phương, đồng thởi hạn chế phân tán nguồn lực, khác phục quy hoạch phân tán.

- Tăng cường các chương trình hợp tác liên kết giữa doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.

  - Chú trọng việc phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận các thị trường (tài chính, lao động, KHCN, thị trường hàng hóa, thị trường công nghiệp.. ) trên cơ sở đó, thúc đẩy DNNVV tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và thực hiện liên kết kinh doanh. Đây cũng là giải pháp cụ thể để thực thi các khuyến nghị được được đề xuất từ năm 2016 như:

+ Triển khai Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Lý do là, tuy các DN ngành công nghiệp chế tạo đã có những dấu hiệu phục hổi tích cực, tuy nhiên chỉ số động thái doanh nghiệp Việt Nam cho thấy các DN thuộc khu vực này hiện vẫn đang trong tình trạng khó khan hơn rất nhiều so với nhiều ngành khác về chỉ số lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm. Tình trạng tỷ lệ nguyên liệu đầu vào và các linh phụ kiện nhập khẩu cao trong giá thành sản phẩm do ngành công nghiệp phụ trợ yếu kém đã dẫn đến tình trạng này. Do vậy các chính sách hỗ trợ phát triển DN nội địa phải được tiến hành đồng bộ về thị trường, tài chính, công nghệ.

+ Hỗ trợ VCCI thành lập trung tâm xúc tiến quan hệ đối tác cùng với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thúc đẩy liên kết giữa các DN trong nước và DN FDI.

+ Hỗ trợ các DN Việt Nam lập văn phòng đại diện ở nước ngoài, đây là kênh xúc tiến thương mại hiệu quả, thiết thực và là kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Trong khi hầu hết các DN nước ngoài khi thâm nhập thị trường Việt Nam đều đặt văn phòng đại diện hoặc chi nhánh ở VN thì các DN Việt nam phải thụ động ngồi chờ các DN nước ngoài đến “hỏi hàng”.

  1. Thúc đẩy cổ phần hóa, thoái vốn tại các DNNN theo đó tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý, phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn và bao quát được thực tiễn; Đồng thời cần có cơ chế rõ ràng về phân công, phân cấp việc thực hiện các quyền, trách nhiệm.
  2. Thực hiện các giải pháp giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp theo hai hướng sau:

Một là, giảm chi phí tuân thủ thông qua việc cải cách thủ tục hành chính, giảm phí, lệ phí; Thúc đẩy phong trảo “ nói không với tiêu cực”, xử lý nghiêm minh các trường hợp để xảy ra tiêu cực ; quy trách nhiệm cho người đứng đâu ở các tổ chức để xảy ra “ tham nhũng vặt”.

Hai là, giảm chi phí các yếu tố đầu vào (đất đai, logistics, cơ sở hạ tầng .. ) thông qua việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

  1. Cải thiện công tác xây dựng pháp luật kinh doanh, tăng cường đào tạo nâng cao năng lực cho các cán bộ nhà nước về công tác xây dựng chính sách phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các chính sách ưu đãi, chính sách quản lý thuế, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 với nhiều mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo ra đời,
  2. Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới tại các doanh nghiệp.
  3. Quan tâm đến công tác phát triển thị trường lao động, phát triển kỹ năng nghề cho người lao động. Chủ trọng đến việc xây dựng mô hình hợp tác công tư trong đào tạo nghề;

6.1- Đẩy nhanh tiến độ sửa đổi Bộ luật lao động nhằm thúc đẩy môi trường pháp luật lao động lành mạnh cho sự phát triển của doanh nghiệp, phù hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, phù hợp tiêu chuẩn lao động quốc tế. Mặt khác, năm 2018 dự kiến Hiệp định thương mại Việt Nam – EU sẽ được hai bên phê chuẩn. Điều khoản về lao động trong Hiệp định thương mại Việt Nam - EU cũng yêu cầu luật pháp lao động của Việt Nam tương thích với các tiêu chuẩn lao động quốc tế theo Tuyên bố 1998 của ILO.

6.2- Quản lý và điều chỉnh mức tăng lương và các chi phí lao động của Việt Nam ở mức hợp lý nhằm đảm bảo sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập thế giới và khu vực

Một trong những hấp dẫn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đó là chi phí lao động thấp và nguồn lao động dồi dào. Đó cũng chính là một trong những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, chi phí lao động ở Việt Nam đang được đẩy lên cao dẫn làm giảm hấp dẫn đầu tư vào Việt Nam và năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Vì vậy, VCCI kiến nghị một số giải pháp như sau:

- Điều chỉnh tốc độ lương tối thiểu hàng năm cho phù hợp.

- Căn cứ đóng BHXH từ năm 2018 là tổng các khoản thu nhập của người lao động dẫn đến mức đóng thực tế rất cao. Kiến nghị lùi thời hạn thực hiện chính sách này đến năm 2020 và kiến nghị nghiên cứu lại chính sách này.

- Xây dựng cơ chế miễn hoặc giảm phí đóng vào Quỹ an toàn lao động cho các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác an toàn vệ sinh lao động, không để xảy ra tai nạn lao động trong năm trước. Thực tế quỹ này đang kết dư nhiều tiền

- Triển khai thực hiện đề xuất của Chính phủ giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động xuống 0.5%

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trân trọng báo cáo.

Nơi nhận:

- Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN

- Bộ Kế hoạch- Đầu tư

- BTT (để báo cáo)

- Lưu VT, VP

PHỤ LỤC

MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

VỀ Thc trng chi phí kinh doanh ca doanh nghip

  1. Chi phí tuân th ca doanh nghip
  • Chi phí thành lp doanh nghip

Về chi phí thành lập doanh nghiệp, từ hình vẽ trên có thể thấy rõ, trong vòng 8 năm, bằng các nỗ lực và chính sách thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp của Chính phủ Việt Nam, chi phí để thành lập doanh nghiệp đã được cắt giảm hơn một nửa từ 12,1% theo báo cáo DB2011 xuống chỉ còn 6,5% theo báo cáo DB2018. Đáng chú ý, nếu chi phí thành lập doanh nghiệp đã liên tục giảm trong giai 2010-2016, xuống chỉ còn 4,6%  thì đến năm 2017, theo báo cáo DB2018, chi phí này lại có xu hướng tăng lên 6,5%.

Hình 1: Chi phí thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam

Nguồn: Theo các báo cáo Doing Business 2011-2018

Về thời gian thực hiện thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, với nỗ lực của Chính phủ, thời gian đăng ký thành lập doanh nghiệp đã giảm mạnh kể từ năm 2015 so với giai đoạn 2010-2014, từ 36 ngày xuống còn 20 ngày. Tuy nhiên, trong các năm tiếp theo, sự cải thiện này đã không được tiếp tục mà còn kém đi, khiến số ngày đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam tăng lên 24 ngày (theo báo cáo DB2017) rồi giảm nhẹ xuống còn 22 ngày (theo DB2018).

So với các nước ASEAN 4, Việt Nam vẫn cần phải tiếp tục cải thiện thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Việt Nam có chi phí thành lập doanh nghiệp khá cao, chỉ xếp sau Phi-lip-pin với 15,8%. Về thời gian thành lập, Việt Nam cũng chỉ hơn Phi-lip-pin và thua xa so với Singapore fa Thái Lan. Điều này cho thấy Chính phủ tiếp tục phải nỗ lực đơn giản hóa thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, rút bớt số thủ tục liên quan đến thành lập doanh nghiệp (hiện là 9) .

Bảng 1. Chi phí thành lập doanh nghiệp của Việt Nam so với ASEAN4

Thành lập DN

Số thủ tục

Thời gian (ngày)

Chi phí (% thu nhập bình quân đầu người)

Việt Nam

9

22

6,5

Sing-ga-po

3

2,5

0,5

Thái Lan

5

4,5

6,2

Ma-lay-xi-a

8

18

5,4

Phi-lip-pin

16

28

15,8

Nguồn: Doing Business 2018

  • Chi phí xin giy phép xây dng

Có thể thấy, với sự nỗ lực của Chính phủ trong việc cắt chi phí xin giấy phép xây dựng, giúp chi phí này giảm từ 1,4% theo báo cáo DB2011 xuống còn 0,7% theo báo cáo DB2018. Tuy nhiên, nếu xét về thời gian làm thủ tục xin giấy phép xây dựng thì dường như không có sự cải thiện trong những năm qua, các doanh nghiệp vẫn phải mất 166 ngày để hoàn thành các thủ tục này.

So với các nước ASEAN 4, xét về số lượng thủ tục liên quan để xin giấy phép xây dựng, Việt Nam cùng với Singapore là những nước yêu cầu ít thủ tục nhất, với 10 thủ tục, thấp hơn nhiều so với các nước như Thái Lan 18 thủ tục và Philippines 23 thủ tục. Về chi phí xin giấy phép, Việt Nam cũng thuộc nhóm có chi phí thấp, chỉ chiếm 0,7% đứng sau Thái Lan 0,1%, trong khi chi phí này ở Philippines là 2,6% và Singapore là 6,2%. Tuy nhiên, thời gian để hoàn thành các thủ tục này ở Việt Nam lại nhiều nhất so với 4 nước ASEAN, lên tới 166 ngày, trong hơn 2 lần so với Malaysia và 3 lần so với Singapore. Rõ ràng, đây đang là hạn chế lớn nhất của Việt Nam trong việc tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xin giấy phép xây dựng.

Hình 2: Chi phí xin giấy phép xây dựng ở Việt Nam

Nguồn: Theo các báo cáo Doing Business 2011-2018

Bảng 2. Chi phí xin giấy phép xây dựng của Việt Nam so với ASEAN4

Xin giấy phép xây dựng

Số thủ tục

Thời gian (ngày)

Chi phí
(% giá trị kho hàng)

Việt Nam

10

166

0,7

Sing-ga-po

10

54

6,2

Thái Lan

18

104

0,1

Ma-lay-xi-a

14

78

1,4

Phi-lip-pin

23

122

2,6

Nguồn: Doing Business 2018

  • Chi phí tiếp cn đin năng

Tiếp cận điện năng là chỉ số có sự cải thiện rõ nét cả về chi phí và thời gian trong 3 năm gần đây. Chi phí tiếp cận điện năng đã liên tục giảm theo các báo cáo DB2011 đến DN 2018, từ 2984,3% xuống còn 1191,8% thu nhập bình quân đầu người. Trong khi đó, nếu những năm 2010-2014 không có sự thay đổi về thời gian làm các thủ tục tiếp cận điện năng (luôn ở mức 115 ngày) thì đến 3 năm gần đây đã giảm mạnh xuống còn 46 ngày. Điều này cho thấy những nỗ lực cải cánh của ngành điện trong những năm gần đây.

Hình 3: Chi phí tiếp cận điện năng ở Việt Nam

Nguồn: Theo các báo cáo Doing Business 2011-2018

Mặc dù đã có nhiều cải thiện, nhưng so với các nước ASEAN 4, chi phí tiếp cận điện năng của Việt Nam vẫn cao nhất cả về số thủ tục, thời gian và chi phí. Các doanh nghiệp vẫn cần 5 thủ tục để tiếp cận điện năng ở Việt Nam trong khi các nước khác chỉ có 4 thủ tục. Điều này dẫn đến thời gian thực hiện các thủ tục này ở Việt Nam lên đến 46 ngày, trong khi các Singapore, Thái Lan và Malaysia chỉ khoảng 30-32 ngày, và Philippine cũng chỉ 37 ngày. Đáng chú ý hơn là chi phí tiếp cận điện năng ở Việt Nam dù đã liên tục giảm, nhưng vẫn có tỷ lệ rất cao so với các nước ASEAN4. 

 Bảng 3. Chi phí tiếp cận điện năng của Việt Nam so với các nước ASEAN4

Tiếp cận điện năng

Số thủ tục

Thời gian (ngày)

Chi phí (% thu nhập bình quân đầu người)

Việt Nam

5

46

1191,8

Sing-ga-po

4

30

25,3

Thái Lan

4

32

63,1

Ma-lay-xi-a

4

31

28

Phi-lip-pin

4

37

25,3

Nguồn: Doing Business 2018

  • Chi phí np thuế

Có thể thấy, so với các nước trong khu vực, chi phí nộp thuế ở Việt Nam cũng tương đối cao, như trong năm 2012, chi phí nộp thuế của Việt Nam cao chỉ sau Phi-lip-pin với 40,1% tỷ lệ phần trăm lợi nhuận thương mại, trong khi đó ở Sing-ga-po, chi phí này chỉ chiếm 27,1%.  Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong những năm sau đó để hạn chế và cắt giảm chi phí nộp thuế này cho doanh nghiệp dù chưa đạt được những kết quả rõ ràng. Chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế và các khó khăn chung của nền kinh tế thế giới, trong khi chi phí nộp thuế của các nước nói chung đều có xu hướng bị tăng lên sau 6 năm như ở Thái Lan tăng từ 34% trong năm 2012 lên 40% trong năm 2017, thì Việt Nam vẫn cố gắng kiềm chế nhằm giảm hoặc ổn định chi phí này ở mức gần 39% (trong năm 2013 và 2014, chi phí nộp thuế đã được cắt giảm xuống chỉ ở mức xấp xỉ 35%). Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cũng không ngừng cố gắng cải thiện quá trình nộp thuế, đặc biệt là cắt giảm số thời gian chờ đợi từ 941 giờ chờ đợi trong năm 2012 xuống chỉ còn 540 giờ chờ đợi trong năm 2017. Đây là một nỗ lực đáng ghi nhận giúp cho quá trình nộp thuế của doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi hơn. Chính vì thế, trong ba năm liên tiếp từ năm 2015 đến năm 2017, Việt Nam được báo cáo Nghiên cứu Môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới đánh giá đã có những cải cách giúp các quá trình nộp thuế trở nên dễ dàng và ít tốn kém hơn như bảng đánh giá các nỗ lực của Việt Nam dưới đây.

Hình 6. Chi phí nộp thuế tại Việt Nam và các quốc gia ASEAN 4

Bảng 4. Chi phí nộp thuế của Việt Nam so với các nước ASEAN4

Chi phí nộp thuế

Số lần nộp trong năm

Thời gian (giờ)

Tổng số thuế và các khoản đóng góp khác
(% lợi nhuận)

Việt Nam

14

498

38,1

Sing-ga-po

5

64

20,3

Thái Lan

21

262

28,7

Ma-lay-xi-a

8

188

39,2

Phi-lip-pin

20

182

42,9

Nguồn: Doing Business 2018

Đây là một bước tiến quan trọng của Việt Nam cho thấy sự quan tâm của Chính phủ cũng như hướng đi đúng đắn của các chính sách giúp hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy vậy, nếu chi phí nộp thuế được cắt giảm hơn nữa thì gánh nặng đè lên vai doanh nghiệp có thể sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn, bên cạnh đó, thứ tự xếp hạng của Việt Nam trong các nghiên cứu về chi phí kinh doanh nói chung và chi phí nộp thuế nói riêng chắc chắn sẽ được cải thiện nhiều hơn nữa.

  • Chi phí xuất nhập khẩu

Có thể thấy chi phí xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2012-2017 về cơ bản luôn ở mức trung bình cao so với các nước cùng khu vực, đặc biệt, trong hai năm 2013 và 2014, chi phí xuất khẩu của Việt Nam vượt qua cả bốn quốc gia còn lại ở mức 610 đô la Mỹ trong khi ở Sing-ga-po và Ma-lay-xi-a, mức chi phí này chỉ xấp xỉ 450 đô la Mỹ. Điều này cho thấy phần nào những khó khăn của các doanh nghiệp của Việt Nam khi muốn xuất khẩu sản phẩm của họ ra thị trường thế giới và cũng khiến giảm lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi họ tham gia vào thị trường thế giới nơi họ gặp phải sự cạnh tranh gay gắt cả về chất lượng và giá cả từ các doanh nghiệp ở các quốc gia khác. Trong năm 2017, có thể thấy, chi phí xuất khẩu của Việt Nam đã được cắt giảm đáng kể, Việt Nam đã cải thiện thứ hạng đáng kể, chỉ xếp sau Malaysia và cao hơn so với Trung bình khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương.

Hình 8. Chi phí xuất khẩu tại Việt Nam và các quốc gia ASEAN 4

Bảng 1. Chi phí xuất khẩu của Việt Nam so với các nước ASEAN4

Chi phí xuất khẩu

Thời gian thực hiện các thủ tục xuất khẩu (giờ)

Thời gian hoàn thành các giấy tờ xuất khẩu (giờ)

Chi phí thực hiện các thủ tục xuất khẩu (USD)

Chi phí hoàn thành các giấy tờ xuất khẩu (USD)

Việt Nam

55

50

290

139

Sing-ga-po

10

2

335

37

Thái Lan

51

11

223

97

Ma-lay-xi-a

45

10

321

45

Phi-lip-pin

42

72

456

53

Nguồn: Doing Business 2018

Xu hướng tương tự với chi phí xuất khẩu cũng xảy ra đối với chi phí nhập khẩu, chi phí nhập khẩu của Việt Nam trong cả giai đoạn 6 năm luôn ở mức trung bình cao, chỉ xếp sau Phi-lip-pin  và Thái Lan. Ba quốc gia này luôn có chi phí nhập khẩu cao hơn so với hai quốc gia còn lại (Sing-ga-po và Ma-lay-xi-a), cá biệt như trong năm 2017, chi phí nhập khẩu của Phi-lip-pin gấp gần 2,5 lần so với chi phí nhập khẩu của Sing-ga-po. Chi phí nhập khẩu cao khiến thị trường Việt Nam không thật sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn thâm nhập mở rộng thị trường của họ. Do đó, điều này cũng gây cản trở các sản phẩm chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế có thể đến tay người tiêu dùng Việt Nam.

Có thể thấy cả chi phí xuất khẩu và chi phí nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 6 năm này có xu hướng ổn định giống nhau ở mức xấp xỉ 600 đô la Mỹ dù xuất phát điểm ban đầu trong năm 2012 có sự chênh lệch. Trong năm 2017, với những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện chi phí kinh doanh nói chung và quá trình xuất nhập khẩu nói riêng, cả hai loại chi phí này, đặc biệt là chi phí xuất khẩu đã được cải thiện đáng kể (giảm gần 1/3 so với năm 2016, tương đương 180 đô la Mỹ). Những nỗ lực này cũng được báo cáo Nghiên cứu Môi trường kinh doanh năm 2017 của Ngân hàng Thế giới ghi nhận khi họ đánh giá rằng “Việt Nam khiến cho việc thương mại xuyên biên giới trở nên dễ dàng hơn khi cho phép áp dụng hệ thống thông quan điện tử”, đây là một bước tiến của Chính phủ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm cả về thời gian và tiền bạc, giúp việc xuất khẩu và nhập khẩu trở nên thuận lợi hơn. 

Bảng 1. Chi phí nhập khẩu của Việt Nam so với các nước ASEAN4

Chi phí xuất khẩu

Thời gian thực hiện các thủ tục nhập khẩu (giờ)

Thời gian hoàn thành các giấy tờ nhập khẩu (giờ)

Chi phí thực hiện các thủ tục nhập khẩu (USD)

Chi phí hoàn thành các giấy tờ nhập khẩu (USD)

Việt Nam

56

76

373

183

Sing-ga-po

33

3

220

40

Thái Lan

50

4

233

43

Ma-lay-xi-a

69

10

321

60

Phi-lip-pin

72

96

580

50

Nguồn: Doing Business 2018

Hình 8. Chi phí nhập khẩu tại Việt Nam

  1. Chi phí đầu vào của doanh nghiệp
    • Chi phí tiếp cn mt bng sn xut kinh doanh

Có khá nhiều doanh nghiệp phản ánh về việc khó khăn về tiền thuê đất trong quá trình tiếp cận đất đai tại các địa phương. Cụ thể, theo điều tra PCI 2016, có 53% doanh nghiệp cho biết có gặp khó khăn trong quá trinh tiếp cận hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh tại các tỉnh, thành phố. Trong số đó, có tới 25% cho biết gặp khó khăn do giá đất theo quy định của nhà nước cao và giá đất theo quy định của nhà nước tăng quá nhanh. Bên cạnh đó, cũng có tới 35% doanh nghiệp cho biết giá thuê mặt bằng kinh doanh trên thị trường cao cũng là trở lại lớn nhất đối với họ khi muốn tiếp cận đất đai hoặc mở rộng mặt bằng sản xuất.

Cùng với khó khăn nêu trên trong tiếp cận đất đai nói chung, các doanh nghiệp cũng phản ánh những trở ngại về giá thuê mặt bằng trong các các khu/cụm công nghiệp. Trong điều tra PCI 2016, dù có 48% doanh nghiệp quan tâm tới việc vào hoạt động tại các khu/cụm công nghiệp, song 52% còn lại e ngại vào khu/cụm công nghiệp với lý do chính là giá thuê mặt bằng cao (26%). Các lý do khác được ít doanh nghiệp nêu hơn, như thủ tục vào khu công nghiệp phức tạp (19%), cơ sở hạ tầng không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp (15%), đường giao thông kết nối kém (7%), khó tuyển dụng lao động tại đó (3%).

Tại Nghị quyết 35/ NQ-CP/ 2016, Chính phủ đã giao cho Bộ tài chính phối hợp các Bộ ngành liên quan “rà soát các quy định của pháp luật về đất đai theo hướng điều chỉnh giảm tiền thuê đất, chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất và các chi phí khác của doanh nghiệp”. Tuy nhiên, kết quả giảm chi phí sau quá trình thực hiện nhiệm vụ này vẫn chưa được rõ rệt.

Chi phí thuê mặt bằng kinh doanh quá cao gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khiến cho năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa bị sụt giảm khi đất nước hội nhập sâu rộng hơn. Trong lĩnh vực bán lẻ, hầu hết các doanh nghiệp có quy mô trung bình tại Việt Nam không thể chi trả những khoản phí cao để thuê mặt bằng tốt, có vị trí thuận lợi, bị lép vế so với các đối thủ quốc tế là những nhà bán lẻ danh tiếng, giàu kinh nghiệm, có tiềm lực tài chính vững mạnh hơn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các chuỗi cửa hàng và vị thế của các bán lẻ nội địa bị lép vế hơn so với hầu hết các chuỗi của nước ngoài phần lớn cũng vì phí mặt bằng.

Các giải pháp đề xuất:

Kiến nghị Chính phủ  yêu cầu các bộ ngành thực hiện triệt để các nhiệm vụ liên quan đến rà soát chi phí kinh doanh liên quan đến đất đai, có đánh giá tác động của các giải pháp đã thực hiện; Có chính sách giảm tiền thuê đất cho doanh nghiệp, nhất là đối với DNNVV; Đồng thời cần có chính sách phù hợp đối với các chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng, để đảm bảo lợi ích hài hòa với các các doanh nghiệp thuê đất, như đóng tiền thuê đất hàng năm, thay vì đóng trước tiền thuê đất cho cả giai đoạn dài (40-50 năm) v..v

2.2 Chi phí tuyn dng, đào to lao động

Điều tra PCI cho thấy chi phí tuyển dụng và đào tạo lao động trong tổng chi phí hoạt động của doanh nghiệp đã gia tăng nhanh trong thời gian gần đây. Cụ thể, nếu như năm 2009, chi phí tuyển dụng lao động thường chiếm khoảng 1% chi phí hoạt động của doanh nghiệp, thì con số này đã gia tăng dần, lên tới khoảng 4,1% chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Tương tự, năm 2009, chi phí đào tạo lao động của doanh nghiệp thông thường chiếm khoảng 1% chi phí hoạt động của doanh nghiệp, đến năm 2010, chi phí đào tạo lao động trong tổng chi phí hoạt động của doanh nghiệp đã lên tới 4,6%. Điều này cho thấy sự vận hành chưa hiệu quả của thị trường dịch vụ lao động, cũng như cả chất lượng đào tạo lao động trong các hệ thống đào tạo nghề và giáo dục tại Việt Nam. Việc doanh nghiệp phải bỏ ra một tỷ lệ lớn chi phí để đào tạo lao động là do áp lực cạnh tranh, nhưng các chi phí này cần được Nhà nước chia sẻ, hỗ trợ.

Các giải pháp đề xuất:

Kiến nghị Chính phủ cần có biện pháp cải thiện sự vận hành của thị trường dịch vụ lao động, cũng như nâng cao chất lượng hệ thống dạy nghề và giáo dục tại Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng lao động;

Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các DN đào tạo lao động, xong phải trên cớ sở chia sẻ chi phí cũng như rủi ro để giảm gành nặng chi phí cho doanh nghiệp.

Mặt khác, các cơ chế thực thi hợp đồng lao động, đảm bảo người lao động khi đã được doanh nghiệp đào tạo thì có cam kết làm việc lâu dài tại doanh nghiệp là rất cần thiết.

2.3. Chi phí tin lương và bo him xã hi

Hiện nay chi phí tiền lương và chi phí đóng BHXH cũng là mối quan tâm của doanh nghiêp. Mức lương tối thiểu vùng năm 2018 vừa tiếp tục được tăng lên 6,5% đưa tiền lương tối thiểu lần lượt từ vùng I đến vùng IV là 3,98 triệu; 3,53 triệu; 3,09 triệu và 2,76 triệu đồng. Dù rằng các doanh nghiệp thường trả lương cho người lao động cao hơn mức lương tối thiểu, tuy nhiên việc tăng lương tổi thiểu sẽ làm phần lương cứng tăng theo dẫn đến cơ sở  đóng các chế độ BHXH tăng, buộc các DN phải điều chỉnh lại cơ cấu tiền lương bằng cách cắt giảm các khoản chi thuộc phần mềm để chuyển sang phần cứng, dẫn đến thu nhập thực tế của người lao động không những tăng mà có khi giảm đi. Tác động của việc tăng lương tối thiểu vùng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày, nơi mà quỹ lương của doanh nghiệp chiếm trên 70% trong giá gia công sản phẩm xuất khẩu.

Bên cạnh đó, điều 89, Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định từ đầu năm 2018 trở đi, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Có thể thấy, phạm vi thu nhập phải đóng BHXH đang được nới rộng hơn, khiến cho việc giảm tỷ lệ đóng BHXH mất dần đi ý nghĩa. Quy định này là không hợp lý và gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp do phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác sẽ thay đổi phụ thuộc vào chất lượng công việc, năng suất lao động của người lao động và tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là con số biến động hàng tháng nên rất khó khăn để tính toán mức đóng. Việc nới rộng phạm vi thu nhập phải đóng BHXH cũng làm suy yếu doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do quy mô khu vực và toàn cầu.

Các giải pháp đề xuất:

  • Trước mắt, Chính phủ cần có lộ trình tăng lương tối thiểu hợp lý, căn cứ vào việc tăng năng suất lao động và chỉ số giá tiêu dùng hàng năm. Đối với việc đóng BHXH, các doanh nghiệp đề nghị xem xét việc lùi áp dụng căn cứ đóng BHXH là tiền lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác từ 1/1/2018 như quy định điều 89, Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Như đã đề cập ở trên, mức đóng BHXH của Việt Nam là cao hàng đầu so với các nước trong khu vực, ngoại trừ Singapore (một trong những quốc gia thịnh vượng hàng đầu Châu Á). Để có thể tạo điều kiện tốt hơn cho sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, giúp họ vươn mình ra thị trường quốc tế trong bối cảnh các Hiệp định thương mại đang thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia, mức đóng BHXH của doanh nghiệp nên được điều chỉnh theo hướng giảm áp lực cho các doanh nghiệp nội.
  • Về mặt dài hạn, vấn đề chi phí về lao động có thể được giải quyết nếu như năng suất lao động được nâng cao, khi đó người lao động sẽ nhận được tiền lương tăng tương ứng với công sức lao động và doanh nghiệp cũng sẽ không bị ảnh hưởng bởi việc tăng lương tối thiểu. Để tăng năng suất lao động, một mặt cần nâng cao trình độ tay nghề của người lao động thông qua đào tạo, mặt khác cần khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, các công đoạn của chuỗi giá trị toàn cầu có giá trị gia tăng cao hơn.

2.4. Chi phí logistics

Chi phí về logistics hiện chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu chi phí kinh doanh của các DN ở Việt Nam (chiếm đến khoảng 20% GDP theo báo cáo của WB), điều này làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ví dụ: chi phí vận chuyển cho một container hàng từ cảng Hải Phòng về Hà Nội hay ở chiều ngược lại (khoảng 100km), đắt gấp ba lần so với chi phí vận chuyển một container hàng từ Trung Quốc và Hàn Quốc về Việt Nam. Do đó, giá thành sản phẩm thường bị đội lên nhiều lần do các chi phí vận chuyển thường không cố định và luôn ở mức cao. Một trong những nguyên nhân chính là vấn đề cơ sở hạ tầng chưa phát triển (hệ thống cảng biển, kho bãi, đường kết nối), thêm vào đó là tình trạng quy hoạch chưa hợp lý, khiến doanh nghiệp phải tốn thêm cả về thời gian và chi phí tài chính về logistics.

Một nguyên nhân khác dẫn đến chi phí phát sinh liên quan đến logistic đó là thủ tục hải quan. Dù ngành hải quan đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện chế độ hải quan một cửa và giảm tỷ lệ kiểm tra hàng hóa, tuy nhiên quy trình xuất nhập khẩu ở VN vẫn còn phức tạp hơn nhiều so với các nước khác. Ngoài ra còn phải kể đến tình trạnh độc quyền của các công ty tàu biển quốc tế trong áp đặt mức giá khiến các DN trong nước phải chịu nhiều chi phí cao và thêm các khoản phụ thu không hợp lý. Nghị định 146/NĐ_ CP/ 2016  về niêm yết giá, phí phụ thu dịch vụ tại các cảng biển chưa giải quyết được vấn đề này.

 Cuối cùng, chi phí logistics cao cũng có phần do năng lực quản lý chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, gây lãng phí, thất thoát trong quá trình mua hàng, sản xuất, lưu kho và bán hàng. Việc ứng dụng khoa học công nghệ để hình thành ngành logistics 4.0 là yêu cầu bắt buộc để nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics nội địa và giảm chi phí về logistics ở Việt Nam. Bên cạnh đó, quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp thiếu sự gắn kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến chi phí vận tải gia tăng , làm phát sinh nhiều chi phí khác

Các giải pháp đề xuất:

  • Trước mắt, Chính phủ cần rà soát và có biện pháp kiểm soát các chi phí liên quan đến các khoản phí và phụ thu tại các cảng biển tại các địa phương. Chính phủ cũng cần có các biện pháp hạn chế vấn đề độc quyền của các doanh nghiệp vận tải nước ngoài. Chính sự độc quyền này khiến giá chi phí logistics của Việt Nam cao, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng Việt Nam khi xuất khẩu. Có 3 nguyên nhân dẫn đến tình trạng độc quyền này. Thứ nhất là do các DN vận tải quốc tế liên kết đươc thành hiệp hội, từ đó tự do áp đặt mức giá và các khoản phụ thu. Thứ hai là năng lực đàm phán của các DN xuất nhập khẩu của Việt Nam còn hạn chế, thường phải chọn hình thức mua CIF bán FOB, vì thế bị áp đặt về các chi phí vận chuyển quốc tế. Cuối cùng, cũng phải nói là năng lực của các doanh nghiệp vận chuyển trong nước còn hạn chế, vì thế không cạnh tranh được với các hãng tàu quốc tế. Chính vì vậy, để hạn chế sự độc quyền của các DN vận tải quốc tế, một mặt chính phủ cần có các biện pháp quản lý việc áp đặt giá và các khoản phụ thu, mặt khác cần tăng cường năng lực của các DN xuất nhập khẩu cũng như DN logistics trong nước thông qua hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp ngành nghề.
  • Về dài hạn, để có thể giảm chi phí logistics, Một mặt Chính phủ cần có quy hoạch lại hệ thống logistics ở Việt Nam, phát huy hết công suất của một số cảng biển bằng việc cải thiền các đường kết nối. Mặt khác Chính phủ có giải pháp phát triển kinh tế theo các cụm ngành/cụm liên kết, làm sao cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận với nguồn nguyên liệu đầu vào cũng như phân phối hàng hóa đầu ra được rút ngắn cả về thời gian và không gian. Từ đó sẽ giảm thời gian vận chuyển và lưu kho, giúp giảm chi phí về logistics. Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp cũng cần ứng dụng khoa học công nghệ để hình thành ngành logistics 4.0, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics nội địa và giảm chi phí về logistics ở Việt Nam.

2.5. Chi phí tiếp cn vn vay

Chi phí tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp Việt Nam vẫn cao, dù ngành ngân hàng trong những năm gần đây đã phấn đấu giảm dần lãi suất cho vay. Lãi suất bình quân cho các lĩnh vực ưu tiên và cho DNNVV hiện nay đã giảm xuống còn 6,5%/năm. Lãi suất bình quân Việt Nam hiện là 7%-9% cao hơn nhiều nước trong khu vực, đơn cử Trung Quốc chỉ là 4,3%, Malaysia là 4,6%, Hàn Quốc 2-3% còn Nhật Bản chỉ là 0,95%. Ngoài lý do lãi suất, vấn đề về thủ tục vay vốn đối với các doanh nghiệp, nhất là các DNNVV còn nhiều khó khăn, không đủ tài sản thế chấp. Nếu được quỹ Bảo lãnh tín dụng thực hiện bảo lãnh thì cũng sẽ phát sinh thêm  chi phí. Trong khi đó, hệ thống các quỹ đầu tư tư nhân lại chưa được khuyễn khích phát triển; Các hình thức huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, thuê mua tài chính v.v. ít được các doanh nghiệp quan tâm.

Các giải pháp đề xuất:

  • Một mặt Chính phủ tiếp tục giao cho Ngân hàng nhà nước xem xét điều chỉnh giảm dần lãi vay cho doanh nghiệp phù hợp với mặt bằng lãi suất trong khu vực ASEAN, hoặc Trung quốc vì các DN của các thị trường này đang cạnh tranh mạnh mẽ với các DN Việt Nam. Mặt khác cần có các giải pháp phát huy hiệu quả vai trò của các quỹ bảo lãnh tín dụng, giảm phí bảo lãnh, thủ tục tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp, nhất là các DNNVV.
  • Về dài hạn, Chính phủ cần đa dạng hóa thị trường vốn thông qua việc khuyến khích phát triển các loại hình cho vay tín chấp, gọi vốn thông qua thị trường chứng khoán, kêu gọi vốn từ các quỹ đầu tư tư nhân, thuê mua tài chính v..v . Cần có chinh sách khuyến khích các tổ chức tài chính, các tổ chức tín dụng đổi mới, sáng tạo ra những sản phẩm dịch vụ mới để giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp; Đẩy nhanh tiến độ triển khai Đề án nghiên cứu ứng dụng Fintech ở Việt nam.

2.6. Chi phí nhp khu nguyên liu

  Chí phi nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, trong khi đó có nhiều ngành của Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Đơn cử như ngành công nghiệp Dược Việt Nam phụ thuộc 85-90% nguyên liệu ngoại nhập. Chi phí cho nguyên liệu hóa dược và các nguyên liệu thô và nguyên liệu đầu khác chiếm gần 60% chi phí sản xuất. Ngành nhựa cũng phải nhập khẩu đến hơn 80% nguyên liệu để phục vụ sản xuất. Một ví dụ khác là về ngành Điều, dù là nước xuất khẩu nhân điều lớn nhất thế giới, nhưng hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu trên 1 triệu trong tổng số 1,4 triệu tấn điều thô dùng để chế biến. Ngay cả ngành thủy sản, vốn trước đây chủ yếu biết đến nuôi trồng, khai thác để phục vụ xuất khẩu thì gần đây cũng bắt đầu nhập khẩu nguyên liệu về để chế biến và xuất khẩu đi. Tương tự, ngành dệt may cũng phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, chỉ riêng mặt hàng vải, doanh nghiệp trong nước phải nhập khẩu tới 86% để phục vụ sản xuất và xuất khẩu, trong khi chất lượng vải trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường xuất khẩu chính của dệt may.

Điều này một mặt cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu đóng vai trò quan trọng hơn trong chuỗi cung giá trị toàn cầu, đang có xu hướng dần trở thành trung tâm chế biến của thế giới. Tuy nhiên mặt khác, dẫn đến sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, và nhất là vấn đề giá thành đầu vào. Giá nguyên liệu nhập khẩu không chỉ bị ảnh hưởng bởi giá bán của các nhà xuất khẩu nước ngoài mà còn phụ thuộc vào tỷ giá của VNĐ, thuế và thủ tục nhập khẩu. Chính sự phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, nên mỗi khi thị trường quốc tế biến động thì các ngành này sẽ gặp bất lợi, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài việc giá thành nguyên liêu liên tục tăng cao gây áp lực lớn về tài chính, nhiều doanh nghiệp còn gặp thêm rủi ro nữa là rất khó kiểm soát chất lượng hàng nhập. Có thể thấy việc thiếu nguồn nguyên liệu đang khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị phụ thuộc rất nhiều vào đối tác nước ngoài. Chính việc không chủ động được nguồn nguyên liệu sẽ khiến cho giá thành cũng như chất lượng sản phẩm trong nước thiếu đi tính cạnh tranh rõ rệt.

Các giải pháp đề xuất:

  • Trước mắt, đề nghị Chính phủ tiếp tục chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn tỷ giá để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có thể dự báo được các chi phí liên quan đến nhập khẩu nguyên liệu
  • Về dài hạn: Đề nghị Chính phủ có chính sách ưu đãi hơn nữa để phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ cho các ngành: như: Hỗ trợ quy hoạch vùng nguyên liệu, có chính sách ưu đãi về đất đai, ưu đãi về lãi suất các doanh nghiệp tham gia phát triển vùng nguyên liệu …

Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết 35 năm 2017 của VCCI (Tải về)

 

 

Ý kiến bạn đọc (0)