Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020
Tên kiến nghị: Xem xét việc giãn thời hạn nộp thuế xuất khẩu đến cuối năm 2020 để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm nguồn vốn phục vụ hoạt động xuất khẩu.
Tình trạng: Đã phản hồi
Đơn vị kiến nghị: Các Doanh nghiệp
Công văn: 0728/ PTM - KHTH, Ngày: 26/05/2020
Nội dung kiến nghị:
Xem xét việc giãn thời hạn nộp thuế xuất khẩu đến cuối năm 2020 để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm nguồn vốn phục vụ hoạt động xuất khẩu.
Đơn vị phản hồi: Bộ Tài chính - Tổng cục Thuế
Công văn: 7802/BTC - CST;10730/BTC-TCT, Ngày: 26/06/2020
Nội dung trả lời:
về đề nghị giãn thời hạn nộp thuế xuất khẩu: Để phát triển kinh tế, phát triển sản xuất trong nước, Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp và chính sách, trong đó có chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hóa. Do đó, cơ bản hàng hóa xuất khẩu không có thuế xuất khẩu (để giảm các chi phí và hạ giá thành xuất khẩu) trừ một số mặt hàng có thuế xuất khẩu là các mặt hàng cần hạn chế xuất khẩu hoặc để bảo vệ môi trường sinh thái. Hiện hành, Biểu thuế xuất khẩu có 211 nhóm hàng hóa trên tổng số hơn 5000 nhóm hàng hóa của Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu có thuế xuất khẩu và 211 nhóm hàng này là tài nguyên khoáng sản không tái tạo, cần hạn chế xuất khẩu cũng như để bảo vệ môi trường, bảo vệ nguyên liệu, vật tư là các tài nguyên quý hiếm để phát triển kinh tế trong nước, Do đó, việc gia hạn thuế xuất, khẩu là chưa phù hợp với định hướng và nguyên tắc xây dựng chính sách thuế xuất khẩu như nêu trên.
Về đề nghị hoàn thuế giá trị gia tăng: Tại khoản 3 Điều 1 Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và Luật quản lý thuế quy định về hoàn thuế như sau:
1. Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuê nếu có sổ thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết trong tháng hoặc trong quý thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo.
Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng kỹ nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang ở trong giai đoạn đầu tư có số thuế giá trị gia tăng của hàng hỏa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ và có số thuế còn lại từ ba trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng...
Căn cứ quy định nêu trên, pháp luật thuế GTGT chỉ quỵ định hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư đang trong giai đoạn đầu tư. Theo đó, kiến nghị hoàn thuế GTGT cho một số ngành bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là chưa phù hợp với quy định của Luật thuế GTGT và vượt quá thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Với chính sách ưu tiên xuất khẩu, theo quy định hiện hành, phần lớn các mặt hàng khi xuất khẩu đều không thuộc danh mục mặt hàng chịu thuế xuất khẩu hoặc có thuế suất thuế xuất khẩu bằng 0%. Đối với hàng hóa phải chịu thuế xuất khẩu chủ yếu là những mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu như khoáng sản, da sống hoặc sản vật quý hiếm cần bảo vệ.
Ngoài ra, qua phân tích số liệu thống kê giai đoạn 2015-2019 cho thấy tỷ trọng số thu ngân sách từ thuế xuất khẩu trên tổng số thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu không nhiều (không quá 3%).
Do đó, giải pháp về gia hạn thời hạn nộp thuế xuất khẩu không thật sự có ý nghĩa đặc biệt đối với những lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn do dịch bệnh Covid-19 như hàng không, du lịch, vận tải…