Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020
Ông Phan Vĩnh Sơn (Cà Mau) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn trường hợp như sau:
Công trình xây dựng A được ký kết hợp đồng thi công vào tháng 8/2020, có giá trị hợp đồng là 10 tỷ đồng. Hợp đồng giữa bên giao thầu và bên nhận thầu có thỏa thuận:
"8.2. Tạm ứng
a) Bên giao thầu tạm ứng cho bên nhận thầu với số tiền là 2.500.000.000 đồng (bằng chữ: Hai tỷ năm trăm triệu đồng chẵn) sau khi bên giao thầu nhận được bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tạm ứng.
b) Việc tính toán, thu hồi dần tiền tạm ứng được thực hiện sau khi bên nhận thầu đã nhận được tiền tạm ứng.
c) Tiền tạm ứng được thu hồi từ lần thanh toán đầu tiên và kết thúc thu hồi với giá trị thanh toán đạt 80% giá hợp đồng. Mức thu hồi được quy định như sau:
- Thanh toán giai đoạn 1: Thu hồi 50% số tiền tạm ứng.
- Thanh toán giai đoạn 2: Thu hồi 50% số tiền tạm ứng.
8.3. Thanh toán:
- Bên A sẽ thanh toán cho bên B theo tiến độ thực hiện của hợp đồng, theo từng giai đoạn nghiệm thu và theo kế hoạch vốn được phân bổ cho gói thầu của cấp thẩm quyền. Giá trị thanh toán cho từng giai đoạn sẽ bằng 100% giá trị nghiệm thu của giai đoạn đó, cụ thể:
- Thanh toán giai đoạn 1: Giá trị khối lượng đạt từ 30%-60%.
- Thanh toán giai đoạn 2: Giá trị khối lượng đạt từ 61%-90%.
- Thanh toán giai đoạn 3: Giá trị khối lượng còn lại. Hoàn thành công trình và bên B lập hồ sơ quyết toán theo quy định.
- Sau khi bên B thực hiện hoàn thành hợp đồng và được bên A nghiệm thu đưa vào sử dụng, bên A sẽ thanh toán cho bên B đến 95% giá trị khối lượng thực hiện, 5% còn lại sẽ thanh toán khi hết thời gian bảo hành công trình hoặc thanh toán 100% giá trị khối lượng thực hiện và bên B phải nộp 5% bảo lãnh bảo hành của ngân hàng theo yêu cầu của bên A.
- Việc thanh toán hợp đồng được thực hiện trên cơ sở khối lượng các công việc hoàn thành được nghiệm thu và đơn giá công việc tương ứng”.
Theo đó, cơ quan kiểm soát chi (kho bạc huyện) đề nghị bên giao thầu và bên nhận thầu điều chỉnh lại thời gian thanh toán như sau:
- Thanh toán giai đoạn 2: Giá trị khối lượng đạt từ 61%-80%;
- Thanh toán giai đoạn 3: 81%-90%.
Mục đích của cơ quan kiểm soát chi đề nghị khi nhà thầu đạt 80% khối lượng thì phải thu hồi hết tiền tạm ứng.
Ông Sơn hỏi, việc yêu cầu nêu trên có phù hợp với quy định không? Việc thanh toán giữa bên giao thầu và bên nhận thầu đã thỏa thuận rất rõ ràng: Trường hợp khối lượng thanh toán giai đoạn 2 của nhà thầu đạt từ 61% đến 90% giá trị hợp đồng thì bên giao thầu vẫn thu hồi 100% giá trị tạm ứng.
Bộ Tài chính trả lời vấn đề này như sau:
Tại Tiết đ Khoản 5 Điều 18 Mục 3 Chương II Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng, quy định:
“Tiền tạm ứng được thu hồi dần qua các lần thanh toán, mức thu hồi của từng lần do hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng nhưng phải bảo đảm tiền tạm ứng được thu hồi hết khi giá trị thanh toán đạt 80% giá hợp đồng đã ký kết”.
Tại Thông tư số 52/2018/TT-BTC ngày 24/5/2018 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2016/TT-BTC ngày 18/1/2016 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, Thông tư số 108/2016/TT-BTC ngày 30/6/2016 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016 của Bộ Tài chính, theo đó quy định:
Tại Khoản 4, Điều 1 quy định: “Vốn tạm ứng được thu hồi qua các lần thanh toán khối lượng hoàn thành của hợp đồng, mức thu hồi từng lần do chủ đầu tư thống nhất với nhà thầu và quy định cụ thể trong hợp đồng và bảo đảm thu hồi hết khi giá trị thanh toán (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) đạt 80% giá trị hợp đồng”.
Tại Khoản 5, Điều 1 quy định: “Kho bạc Nhà nước nơi mở tài khoản đôn đốc các chủ đầu tư thực hiện đúng quy định về việc thu hồi vốn tạm ứng, phối hợp với chủ đầu tư thực hiện kiểm tra số vốn đã tạm ứng để thu hồi những khoản tồn đọng chưa sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích. Kho bạc Nhà nước chịu trách nhiệm kiểm tra số dư tạm ứng để bảo đảm thu hồi hết số vốn đã tạm ứng khi giá trị thanh toán (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) đạt 80% giá trị hợp đồng”.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, thì vốn tạm ứng được thu hồi hết khi giá trị thanh toán (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) đạt 80% giá trị hợp đồng nên theo nội dung ông Sơn hỏi “việc quy định trong hợp đồng giữa bên giao thầu và bên nhận thầu về thu hồi số tiền tạm ứng khi thanh toán giai đoạn 2: Giá trị khối lượng đạt từ 61% đến 90%” là chưa phù hợp.
Đồng thời, cơ quan kiểm soát chi (Kho bạc Nhà nước huyện) đề nghị bên giao thầu và bên nhận thầu điều chỉnh lại thời gian thanh toán giai đoạn 2: Giá trị khối lượng đạt từ 61% đến 80% để bảo đảm việc thu hồi hết tiền tạm ứng khi giá trị thanh toán (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) đạt 80% giá trị hợp đồng là phù hợp với các quy định tại Nghị định số 37/2015/NĐ-CP và Thông tư số 52/2018/TT-BTC.