Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020
Theo phản ánh của ông Khôi, Khoản 3, Điều 12 Luật Nhà ở 2014 quy định:
"Trường hợp mua bán nhà ở giữa chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở với người mua thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là kể từ thời điểm bên mua nhận bàn giao nhà ở hoặc kể từ thời điểm bên mua thanh toán đủ tiền mua nhà ở cho chủ đầu tư. Đối với nhà ở thương mại mua của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thì thời điểm chuyển quyền sở hữu được thực hiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản".
Ông Khôi hiểu là nếu người mua nhà ở từ chủ đầu tư thì thời điểm chuyển quyền sở hữu là chỉ bao gồm trong 2 trường hợp là bàn giao hoặc thanh toán 100% giá trị nhà ở.
Còn đoạn "đối với nhà ở thương mại mua của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thì thời điểm chuyển quyền sở hữu được thực hiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản" đang áp dụng cho trường hợp bên mua mua lại nhà ở từ doanh nghiệp kinh doanh bất động sản (tức là mua lần 2).
Các trường hợp chung khác thì áp dụng Khoản 5, Điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản 2014.
Ông Khôi hỏi, cách hiểu nêu trên của ông có đúng hay không? Có sự chồng chéo và không rõ ràng giữa Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản hay không? Ví dụ, Khoản 5, Điều 13 Luật Kinh doanh bất động sản và Khoản 8, Điều 6 Luật Nhà ở 2014. Nếu áp dụng cho trường hợp chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại thì sẽ được áp dụng Khoản 5, Điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản 2014?
Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau:
Tại Điều 1 của Luật Nhà ở 2014 đã quy định: “Luật này quy định về sở hữu, phát triển, quản lý, sử dụng nhà ở; giao dịch về nhà ở; quản lý Nhà nước về nhà ở tại Việt Nam. Đối với giao dịch mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thương mại của các doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản thì thực hiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản”.
Do vậy, quy định tại Khoản 3, Điều 12 Luật Nhà ở 2014 về thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở với quy định tại Khoản 5, Điều 19 của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 cũng như quy định tại Khoản 8, Điều 6 Luật Nhà ở 2014 với quy định tại Khoản 5, Điều 13 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 là bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, không mâu thuẫn, chồng chéo.