Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020
Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
Tại Điều 3 Nghị định số 138/2007/NĐ-CP ngày 28/8/2007 của Chính phủ về tổ chức hoạt động của Quỹ Đầu tư phát triển địa phương quy định, Quỹ Đầu tư phát triển địa phương là một tổ chức tài chính Nhà nước của địa phương thực hiện chức năng đầu tư tài chính và đầu tư phát triển.
Quỹ Đầu tư phát triển địa phương có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có bảng cân đối kế toán riêng, có con dấu, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Điều 2 Nghị định số 138/2007/NĐ-CP quy định, vốn hoạt động là tổng số vốn chủ sở hữu và vốn huy động của Quỹ Đầu tư phát triển địa phương tại một thời điểm.
Theo Khoản 5, Điều 4 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp thì vốn của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp khác là vốn Nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở lên do cơ quan đại diện chủ sở hữu làm chủ sở hữu phần vốn góp.
Khoản 1, Điều 4 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP quy định, cơ quan đại diện chủ sở hữu là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật.
Căn cứ các quy định nêu trên thì việc Quỹ Đầu tư phát triển của địa phương dùng nguồn vốn hoạt động của Quỹ để góp vốn thành lập công ty cổ phần (Quỹ là cổ đông góp vốn trong công ty cổ phần, không phải do UBND tỉnh làm đại diện chủ sở hữu phần vốn góp đó), do đó, không được xác định là vốn Nhà nước góp tại công ty cổ phần.