Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020
Ông Nguyễn Trường Giang (Bình Thuận) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn giải quyết một số tình huống sử dụng đất sau:
Người sử dụng đất ổn định được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp hoặc Nhà nước giao đất, nay hết hạn sử dụng đất đều xử lý theo hướng: Nếu không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì phải chuyển sang thuê toàn bộ diện tích; nếu trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được gia hạn diện tích trong hạn mức giao đất; phần diện tích vượt thì chuyển sang thuê đất.
Người sử dụng đất do nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, nay hết hạn: Nếu không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì phải chuyển sang thuê toàn bộ diện tích; nếu trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được gia hạn diện tích trong hạn mức nhận chuyển quyền. Phần diện tích vượt hạn mức phải chuyển sang thuê.
Ông Giang hỏi, các phương án giải quyết nêu trên có đúng không?
Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:
Tại Khoản 3, Khoản 4, Điều 210 của Luật Đất đai 2013 quy định:
“3. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, khi hết thời hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại Khoản 1, Điều 126 của Luật này.
Thời hạn sử dụng đất được tính từ ngày 15/10/2013 đối với trường hợp hết hạn vào ngày 15/10/2013 theo quy định của Luật Đất đai năm 2003; tính từ ngày hết thời hạn giao đất đối với trường hợp hết hạn sau ngày 15/10/2013.
4. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì thời hạn sử dụng đất khi cấp Giấy chứng nhận tính từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành”.
Tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 60 của Luật Đất đai quy định:
“1. Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc trường hợp thuê đất theo quy định của Luật này đã được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn sử dụng đất còn lại mà không phải chuyển sang thuê đất. Khi hết thời hạn sử dụng đất, nếu được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền gia hạn thì phải chuyển sang thuê đất theo quy định của Luật này.
2. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc trường hợp thuê đất theo quy định của Luật này đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì phải chuyển sang thuê đất kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành và nộp tiền thuê đất.
3. Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc trường hợp thuê đất theo quy định của Luật này đã nhận chuyển quyền sử dụng đất hợp pháp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất còn lại mà không phải chuyển sang thuê đất theo quy định của Luật này”.
Tại Khoản 8, Điều 210 của Luật Đất đai quy định: “8. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng diện tích đất nông nghiệp được giao vượt hạn mức trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì phải chuyển sang thuê đất theo quy định của Luật này”.
Theo Khoản 5, Điều 20 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai:
“5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định vào mục đích thuộc nhóm đất nông nghiệp từ trước ngày 1/7/2004, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
a) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với diện tích đất đang sử dụng nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật Đất đai; diện tích đất nông nghiệp còn lại (nếu có) phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước;
b) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức thuê đất của Nhà nước đối với diện tích đất đang sử dụng; thời hạn thuê đất được thực hiện theo quy định tại Khoản 2, Điều 126 và Khoản 4, Điều 210 của Luật Đất đai”.
Căn cứ quy định nêu trên thì tùy từng trường hợp sử dụng đất cụ thể sẽ có cách thức xử lý khác nhau khi công nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, nhìn chung Nhà nước bảo hộ quyền có đất để sản xuất của người trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo đúng quy định tại Điều 26 của Luật Đất đai.