Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020
Tên kiến nghị: Khiếu nại và phản đối với Quyết định số 1782/ QĐ- HQHN ngày 26/11/2018 về việc ấn định thuế đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu của công ty.
Tình trạng: Đã phản hồi
Đơn vị kiến nghị: Công ty TNHH mỏ Nikel Bản Phúc
Công văn: 2992/ PTM - VP, Ngày: 27/12/2018
Nội dung kiến nghị:
Công ty TNHH mỏ Nikel Bản Phúc đã thực hiện việc xuất khẩu 42 lô hàng tinh quặng Ni ≥ 9,5% từ tháng 11/ 2013 đến tháng 11/2016 với tổng số tiền thuế xuất khẩu đã nộp ngân sách nhà nước là 929 tỷ đồng. Các lô hàng xuất khẩu này được xuất khẩu tại cảng Hải Phòng và mở tờ khai tại Chi cục hải quan Gia Thụy.
Công ty đã thực hiện thủ tục xuất, xác định trị giá hải quan, kê khai và làm thủ tục hoàn thuế đối với 25 lô hàng đầu tiên. Tuy nhiên đối với các lô hàng số 26, 67 và 29 theo tờ khai hải quan 300448689611 ngày 02/07/2015, tờ khai hải quan 300469319900 ngày 20/7/2015 và tờ khai hải quan 300554889410 ngày 30/9/2015 thì Cục Hải quan thành phố Hà Nội đã ra Công văn số 3997/HQHN-TXNK ngày 31/10/2016 không chấp nhận thời điểm có giá chính thức đối với các lô hàng xuất khẩu này với lý do các điều kiện chấp nhận thời điểm có giá chính thức đối với các lô hàng không được đáp ứng trên cơ sở hồ sơ Công ty cung cấp (Công ty xin gửi kèm Công văn số 3997/HQHN-TXNK kèm theo Công văn này). Ngoài ra đối với các lô hàng còn lại thì chi cục Hải quan Gia Thụy lại chấp nhận trị giá hải quan do Công ty khai báo đối với các lô hàng mà Công ty cần phải nộp thêm thuế, để yêu cầu Công ty nộp bổ sung thuế. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn, nên Công ty đã từ chối việc nộp thêm và đề nghị Cơ quan Hải quan thống nhất việc xác định trị giá Hải quan và tính toán bù trừ số thuế đã nộp cho Công ty. Công ty có nhiều văn bản giải trình và làm việc với cơ quan Hải quan đề nghị giải quyết vấn đề này. Công ty cũng đã có văn bản gửi Tổng cục Hải quan xin được hướng dẫn và giải quyết. Thậm trí Công ty còn phải nhờ sự can thiệp của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam để yêu cầu Tổng cục Hải quan giải quyết các vấn đề hoàn thuế nhập khẩu của Công ty. Sau hơn 1 năm chờ đợi giải quyết, ngày 20/3/2018, Công ty nhận được Công văn số 1356/ TXK- TGHQ thông báo đã yêu cầu Cục hải quan Hà Nội thực hiện rà soát và trả lời kiến nghị của Công ty. Tuy nhiên, sau đó Công ty vẫn không nhận được phản hồi. Ngày 07/5/2018, Công ty đã gửi Công văn lên Bộ tài chính đề nghị xem xét tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hướng dẫn xác định trị giá hải quan đối với lô hàng xuất khẩu tinh quặng. Ngày 02/7/2018, công ty nhận đươc thông báo của Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo Cục Hải quan thành phố Hà Nội làm việc trực tiếp với công ty.
Ngày 20/8/2018 Cục hải quan thành phố Hà Nội ban hành Quyết định kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan. Công ty đã phối hợp làm việc và giải trình đầy đủ với tổ kiểm tra sau thông quan.
Ngày 30/10/2018 công ty nhận được Thông báo về kết quả kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan số 3127/ TB- HQHN ngày 09/10/2018 do công chức làm việc gửi qua Zalo. Theo đó, tổ kiểm tra sau thông quan kết luận không chấp nhận trị giá hải quan đối với các lô hàng xuất khẩu của Công ty do “ Công ty khai báo trị giá tính thuế là giá FOB Hải Phòng nhưng đã trừ đi một khoản xác định là một khoản vận chuyển là không đúng với quy định tại khoản 1 điều 4 Thông tư 39/2015/ TT- BTC ngày 25/3/2015”. Công ty không đồng ý với kết luận này và đã có văn bàn khiếu nại đề nghị Cục hải quan Hà Nội xem xét lại. Đồng thời gửi đơn khiếu nại đến Cục Hải về thông báo này.
Ngày 28/11/2018, Công ty nhận được Quyết định số 1782/ QĐ- HQHN ngày 26/11/2018 về việc ấn định thuế đối với hàng xuất nhập khẩu. Theo đó số tiền ấn định thuế đối với mặt hàng tinh quặng Nikel xuất khẩu tại 42 tờ khai hải quan của Công ty là 933.349.689.081 VNĐ (chênh lệch số với số thuế công ty đã kê khai là 15.974.241.920 VNĐ.
NỘI DUNG KHIẾU NẠI VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT CỦA CÔNG TY
1/ Công ty không đồng ý với nội dung quyết định ấn định thuế của Cục hải quan thành phố Hà Nội đối với việc không chấp nhận khấu trừ cước phí vận chuyển gia khỏi trị giá tính thuế bởi:
Theo Hợp Đồng Bao Tiêu Tinh Quặng Nikel số JNMC08.2007.Ni.0426 ngày 24/6/2013 được ký giữa Công ty và Golden Wealth International Trading Limited (Bên Mua) (“Hợp Đồng Bao Tiêu”). Theo quy định tại Khoản 8 của Hợp Đồng Bao Tiêu, giá phải thanh toán được quy định cho kim loại Nikel, đồng, Cobalt, và Nhóm kim loại quý (các kim loại khác sẽ không được thanh toán). Đối với từng kim loại phải thanh toán, giá kim loại được xác định dựa trên giá trung bình trong tháng của Giá thanh toán bằng tiền mặt trên Thị Trường Giao Dịch Kim Loại Luân Đôn đối với kim loại nikel, đồng, coban trong Giai đoạn báo giá được công bố trên Bản Tin Kim Loại Luân Đôn (“Giá LME”). Đồng thời, Bản Phúc (Bên Bán) phải thanh toán các mức phạt nếu có lẫn các thành phần As, MgO, Pb và Zn trong tinh quặng.
Cách tính giá như quy định tại Khoản 8 là theo thông lệ quốc tế. Theo thông lệ quốc tế và thực tiễn giao dịch kim loại được thừa nhận rộng rãi trên thế giới, Giá LME được dùng làm giá tham chiếu để tính toán giá cho tinh quặng, kim loại mua bán trong giao dịch tương ứng. Thị Trường Giao Dịch Kim Loại Luân Đôn (“LME”) cung cấp các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn đối với các kim loại gồm nhôm, hợp kim nhôm, hợp kim nhôm đặc biệt Bắc Mỹ, coban, đồng, chì, molypden, niken, phôi thép, thiếc và kẽm. Để giao dịch các hợp đồng mua bán kim loại niêm yết tại LME, người ta phải giao dịch qua một thành viên nào đó của LME. Người mua hợp đồng sẽ nhận được một giấy chứng nhận đối với một kho hàng được LME phê chuẩn để thực hiện việc giao nhận hàng vào thời gian cụ thể nếu như người đó có yêu cầu (hợp đồng quyền chọn). LME cũng công bố vào mỗi ngày giao dịch các con số chi tiết về lượng hàng nhập kho và lượng hàng xuất kho đối với từng kho hàng. Để hỗ trợ cho cơ chế này, LME phê chuẩn và cấp phép cho một mạng lưới kho tàng và tiện ích lưu giữ trên khắp thế giới. Các công ty kho vận phải đạt được các tiêu chuẩn chặt chẽ trước khi được LME phê chuẩn cho phép giao nhận kim loại.
Bên Bán và Bên Mua trong Hợp Đồng Bao Tiêu thống nhất rằng Giá LME khi được xác định sử dụng làm giá tham chiếu đã giả định bao gồm chi phí vận chuyển đến các kho hàng được LME phê chuẩn và điều này không phù hợp với giao dịch mua bán tinh quặng nikel giữa Bên Bán và Bên Mua theo Hợp Đồng Bao Tiêu. Do vậy, Bên Bán và Bên Mua đồng ý loại trừ chi phí vận tải (cụ thể, là chi phí vận tải từ cảng Hải Phòng đến cảng Thiên Tân là cảng dỡ hàng của Bên Mua) khi xác định giá tạm tính và giá chính thức của kim loại để quy về điều kiện giao hàng FOB Incoterms 2000, phù hợp với Khoản 6.1 của Hợp Đồng Bao Tiêu (Khoản 6.1 giao hàng cho Bên Mua theo điều kiện FOB Incoterms 2000 cảng Hải Phòng). Do vậy, Khoản 6.7 và Khoản 9.5 của Hợp Đồng Bao Tiêu đã quy định chi phí vận tải sẽ được khấu trừ vào hóa đơn tạm tính. Mặc dù, Hợp Đồng Bao Tiêu không đề cập đến việc sẽ khấu trừ chi phí vận tải vào trong hóa đơn chính thức, nhưng do điều kiện giao hàng là FOB Incoterms 2000 và giá tham chiếu là Giá LME tại Giai đoạn báo giá chính thức nên chi phí vận tải cũng được khấu trừ trong hóa đơn chính thức tương tự như cách khấu trừ trong hóa đơn tạm tính.
Đây là một thỏa thuận hợp pháp về tính giá, phù hợp với ý chí của các bên khi thiết lập giao dịch và không trái với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Bên Mua đã khẳng định ý chí và sự đồng thuận của mình về giá mua theo cách tính như trên và Bên Bán đồng ý với giá bán theo cách tính nêu trên. Đối với từng lô hàng xuất khẩu, thỏa thuận về giá theo điều kiện giao hàng FOB Incoterms 2000 được thể hiện tại Bảng tính trị giá hóa đơn tạm tính và Bảng tính trị giá hóa đơn chính thức được các bên cùng ký kết và cấu thành một thỏa thuận có hiệu lực pháp lý ràng buộc các bên, ghi nhận giá phải thanh toán cho hàng hóa là Giá LME trong Giai đoạn báo giá trừ cước vận tải để vận chuyển hàng hóa từ cảng Hải Phòng đến cảng đích.
Khoản 6.1 của Hợp Đồng Bao Tiêu, Công ty sẽ giao hàng cho Bên Mua theo điều kiện FOB Incoterms 2000 cảng Hải Phòng; Khoản 6.2 của Hợp Đồng Bao Tiêu, Bên Mua sẽ thuê một tàu vận chuyển tinh quặng. Quy định chung của Điều Kiện FOB Incoterms 2000, người bán không có nghĩa vụ đối với việc vận chuyển hàng hóa và người mua có nghĩa vụ chịu chi phí vận chuyển hàng hóa từ cảng giao hàng. Điều A3(a) của Điều Kiện FOB Incoterms 2010 quy định làm rõ: “Người bán không có nghĩa vụ đối với người mua về việc ký kết hợp đồng vận tải. Tuy vậy, nếu người mua yêu cầu hoặc nếu đó là tập quán thương mại và người mua không có một chỉ dẫn ngược lại kịp thời, thì người bán có thể ký hợp đồng vận tải thông thường với những chi phí và rủi ro do người mua chịu.” Về mặt bản chất, việc Bên Mua ủy quyền cho Bên Bán thuê tàu nhưng sẽ bồi hoàn chi phí vẫn hoàn toàn phù hợp với Điều Kiện FOB Incoterms 2000 do chi phí vận tải đến cuối cùng vẫn do Bên Mua chịu. Thực tế, Bên Mua đã ủy quyền cho Bên Bán đứng ra thuê tàu vận chuyển, mọi chi phí thuê tàu Bên Mua sẽ bồi hoàn cho Bên Bán. Nội dung này đã được các bên cụ thể hóa bằng văn bản theo Hợp Đồng Ủy Quyền ngày 22/11/2016.
Bản sửa đổi lần thứ hai Hợp Đồng Bao Tiêu đã được sửa đổi và trình bày lại ngày 21/1/2016 và chuyển giao ngày 28/1/2016 được ký ngày 14/7/2017 phê chuẩn và xác nhận tại ngày 28/6/2013 (i) tiền cước vận chuyển sẽ được trừ khỏi hóa đơn tạm tính và hóa đơn chính thức, (ii) Trị giá bảng tính hóa đơn tạm tính bao gồm tổng trị giá FOB Incoterms 2000 và tiền cước vận chuyển đường biển, (iii) giá phải thanh toán cho tinh quặng nikel tại hóa đơn tạm tính là giá tạm tính theo điều kiện FOB Incoterms 2000, giá phải thanh toán cho tinh quặng nikel tại hóa đơn chính thức là giá chính thức theo điều kiện FOB Incoterms 2000.
Mặt khác, theo điều 4 của Thông tư 39/ 2015/ TT- BTC về trị giá hải quan thì “Nguyên tắc: Trị giá hải quan là giá bán của hàng hóa tính đến cửa khẩu xuất không bao gồm phí bảo hiểm quốc tế (I), phí vận tải quốc tế (F)”
Vậy việc Công ty loại phí vận chuyển ra khỏi trị giá tính thuế là hoàn toàn hợp lý. Công ty kính đề nghị Cục hải quan thành phố Hà Nội xem xét đề nghị này của Công ty.
2/ Công ty đề nghị Cục hải quan Hà nội chỉ rõ căn cứ để xác định giá tính thuế và trị giá hải quan đối với lô hàng xuất khẩu của công ty trong quyết định ấn định thuế.
3/ Công ty mỏ Nikel Bản Phúc luôn chấp hành thực hiện các thủ tục hải quan và kê khai quyết toán thuế theo hướng dẫn của cơ quan hải quan. Việc khấu trừ phí vận chuyển quốc tế ra khỏi tri giá tính thuế đã được áp dụng dung đồng bộ trên cả 42 lô hàng xuất khẩu của Công ty và đã được Chi cục Hải quan Gia Thụy, Cục Hải quan thành phố chấp nhận và làm thủ tục hoàn thuế đối với 25 lô hàng xuất khẩu của Công ty. Công ty đã được Cục Hải quan thành phố Hà Nôi trao tặng bằng khen vì đã có thành tích tốt trong việc thực hiện các thủ tục hải quan và nộp thuế xuất khẩu 06 tháng đầu năm 2014 và năm 2015. Vậy nay Cục Hải quan thành phố Hà Nội lại không chấp nhận trị giá hải quan đối với các lô hàng xuất khẩu của Công ty mặc dù Công ty đã cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng từ giao dịch thực tế để chứng minh sự hợp pháp và phù hợp với thông lệ quốc tế của giao dịch là một điều vô lý. Công ty kính đề nghị Tổng cục hải quan xem xét hồ sơ của Công ty và có hướng dẫn chỉ đạo về phương pháp xác định trị giá hải quan đối mặt hàng tinh quặng Ni có tính chất đặc thù này.
4/ Hiện tại công ty đang trong tình trạng khó khăn về tài chính, hoạt động sản xuất đã tạm dừng từ tháng 9/ 2016 nên công ty không có doanh thu. Công ty đã phải tốn kém rất nhiều chi phí tài chính cũng như nhân lực để làm việc với cơ quan Hải quan cũng như các cơ quan liên quan trong suốt 02 năm qua. Nhà đầu tư mất lòng tin nên kéo dài thời gian xem xét để tiếp tục đầu tư cho Dự án. Do vậy, thật đang tiếc, tại thời điểm này, Công ty không có đủ năng lực tài chính để nộp phần thuế chênh lệch do Cục hải quan thành phố Hà Nội ấn định.
Công ty đang chuẩn bị ký một thỏa thuận với một nhà đầu tư nước ngoài để rót vốn đáng kể cho môt chương trình khoan thăm dò nâng cao nhằm thúc đẩy kinh tế tỉnh Sơn La. Khoản đầu tư này có nguy cơ bị rút lại nếu không có được một kết quả thuế quan hợp lý. Công ty rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ và các cơ quan liên quan để giải quyết các khiếu nại như đã đề cập ở trên và chúng tôi cam kết trả thêm thuế (nếu có) sau khi các vấn đề khiếu nại nêu trên được giải quyết thỏa đáng.
Đơn vị phản hồi: Bộ Tài chính – Tổng cục Hải quan
Công văn: 1282/TCHQ - PC, Ngày: 07/03/2019
Nội dung trả lời:
Về việc này Cục Thuế xuất nhập khẩu - Tổng cục Hải quan đã có công văn số 297/TXNK-TGHQ ngày 05/01/2019 gửi Công ty TNHH Mỏ Nikel Bản Phúc, theo đó: Trị giá hải quan của hàng hóa do Công ty xuất khẩu được xác định trên cơ sở giá bán hàng hóa tính đến cửa khẩu xuât khâu ghi frên hợp đông mua bán hoặc hóa đơn thương mại và các khoản chi phí liên quan đến hàng hóa xuất khẩu tính đến cửa khẩu xuất phù hợp với các chứng từ có liên quan nếu các khoản chi phí này chưa bao gồm trong giá bán của hàng hóa. Trường hợp trong tổng số tiền mà đối tác nước ngoài thực tế đã thanh toán cho doanh nghiệp có bao gồm chi phí vận tải quốc tế, chỉ phí bảo hiểm quốc tế, và các chi phí khác có liên quan đến quá trình vận chuyển hàng hóa từ cửa khẩu xuất khẩu đến địa điểm giao hàng tại nựớc ngoài thì được trừ trị giá của các chỉ phí đó khỏi trị giá hải quan, với điều kiện doanh nghiệp xuất trình đầy đủ các chứng từ, tài liệu hợp pháp thể hiện chỉnh xác trị giá của các khoản chi phí đã nêu.