Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020
Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời vấn đề ông Minh hỏi như sau:
Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định trách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau:
Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp: Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động; người sử dụng lao động thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế; chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm, thì có thể kéo dài, nhưng không được quá 30 ngày.
Tiền lương, BHXH, BHYT, BHTN, trợ cấp thôi việc và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động được ưu tiên thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm sau đây: Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng BHXH, BHTN và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động; cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do người sử dụng lao động trả.
Khoản 5 Điều 21 Luật BHXH 2014 quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động như sau: Phối hợp với cơ quan BHXH trả sổ BHXH cho người lao động, xác nhận thời gian đóng BHXH khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật.
Tại Điểm d Khoản 4 Điều 40 Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 1/3/2020 của Chính phủ quy định, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng khi vi phạm với mỗi người lao động nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi không trả sổ BHXH cho người lao động theo quy định tại Khoản 5 Điều 21 Luật BHXH.
Căn cứ quy định nêu trên, khi chấm dứt hợp đồng lao động với ông Nguyễn Minh, công ty có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại sổ BHXH cùng với bản chính giấy tờ khác nếu công ty đã giữ của ông.
Việc ông Nguyễn Minh có vay tiền của cá nhân đồng nghiệp làm việc cùng công ty là giao dịch dân sự. Nếu có phát sinh tranh chấp hợp đồng vay tiền về số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, các bên cần thương lượng, hòa giải, hoặc khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khi chấm dứt hợp đồng lao động với ông Nguyễn Minh mà công ty giữ lại sổ BHXH để giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tiền giữa ông Minh với cá nhân khác là không đúng thẩm quyền và trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi BHXH của ông Minh.
Ông Minh cần có đơn yêu cầu giám đốc công ty trả sổ BHXH theo quy định tại Khoản 5 Điều 21 Luật BHXH 2014 và Khoản 3 Điều 48 Bộ luật Lao động 2019. Nếu không thực hiện thì gửi đơn đến Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội nơi công ty có trụ sở để được giải quyết theo quy định.
Luật sư Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng, Đoàn luật sư Hà Nội
* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.
Theo Báo Chính phủ
https://baochinhphu.vn/Tra-loi-cong-dan/Cong-ty-khong-tra-so-BHXH-khi-nghi-viec-xu-ly-the-nao/457537.vgp