Căn cứ Khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có ý nghĩa là giấy tờ chứng minh nhà đất mua trước thời kỳ hôn nhân (trước khi kết hôn) là tài sản riêng của vợ, hoặc chồng có quyền sử dụng, bán, tặng cho.
Theo quy định của luật Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì những tài sản là bất động sản được xác lập trong thời kỳ hôn nhân thì được coi là tài sản chung của hai vợ, chồng, khi muốn chuyển nhượng phần đất này thì phải được sự đồng ý của cả chồng và vợ.
Vì Luật Đất đai trước đây chưa yêu cầu bắt buộc phải ghi tên cả vợ và chồng trong sổ đỏ nên còn gây khó khăn trong việc quản lý nên trong thực tế khi mua bán đất thì cơ quan có thẩm quyền thường sẽ yêu cầu bên nhận chuyển nhượng phải cung cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của mình để chứng minh về tài sản chung, tài sản riêng của cá nhân.
Điều 21 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch và Luật Hộ tịch 2014 quy định về thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như sau:
- Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, nơi thường trú của công dân Việt Nam thực hiện việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Trường hợp công dân Việt Nam không có nơi thường trú, nhưng có đăng ký tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú thì UBND cấp xã, nơi người đó đăng ký tạm trú cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Quy định tại Khoản 1 Điều này cũng được áp dụng để cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, nếu có yêu cầu.