1. Theo quy định hiện hành, việc khai báo và áp mã HS đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là trách nhiệm của doanh nghiệp và cơ quan hải quan.
Tại thời điểm Công ty nhập khẩu lô thép (Tờ khai hải quan số 101080058700/A11 ngày 14/10/2016), việc áp mã HS hàng hóa thực hiện theo Phụ luc I ban hành kèm theo Thông tư số 103/2015/TT-BTC ngày 01/7/2015 của Bô Tài
2. về quy định về quản lý chất lượng đối với thép:
Tại thời điểm Công ty nhập khẩu lô thép (Tờ khai hải quan số 101080058700/A11 ngày 14/10/2016), việc quản lý chất lượng đối với thép sản xuất trong nước và thép nhập khẩu thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BCT-BKHCN ngày 31/12/2015 của Bộ Công Thượng và Bộ Khoa hoc và Công nghệ qựy định về quàn lý chất lượng thép sản xuất trong nước và thép nhập khẩu, với nội dung nhập khẩu thép. Vì vậy, theo quy định, lô thép Công ty nhập khẩu ứieo Tờ khai hải quan số 101080058700/A11 ngày 14/10/2016 phải áp dụng các quy định quản lý của Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BCT-BKHCN. Do trong tài liệu đính kèm công văn số 0511/CV-ECO/2019 ngày 29/5/2019 của Quý Công ty không có hồ sơ liên quan đến kết quả đánh giá sự phù hợp lô thép nhập khẩu theo tiêu chuẩn Công ty công bố áp dụng, nên Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng không có căn cứ kỹ thuật để có ý kiến trao đổi xử lý tháo gỡ khó khăn cho Công ty.
Bên cạnh đó, thực hiện quy định của pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt nam, ngày 01/9/2016, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 3584/QĐ-ẸCT về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm thép mạ (còn gọi là tôn mạ) nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, Quyết định số 3584/QĐ-BCT có hiệu lực thi hành kể từ ngày 16/9/2016. Theo đó, các sản phẩm thép mạ nhập khẩu, có xuất xứ từ Cộng hòa nhân dân Trung hoa (bao gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc, có mã HS của hàng hóa được quy định tại điều 1 quyết định số 3584/QĐ-BCT phải áp dụng biện pháp chống bán phá giá tạm thời theo quyết định số 3584/QĐ-BCT.
Liên quan đến nội dung này, ngày 06/10/2017, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lưòng Chất lượng đã có công văn số 2525/TĐC-HCHQ gửi Công ty.
Theo công văn số 0511/CV-ECO/2019 ngày 29/5/2019 cùa Công ty tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng cho rằng: vướng mắc của lô thép Công ty nhập khẩu (theo Tờ khai hải quan số 101080058700/Al 1 ngày 14/10/2016) là việc định danh tên hàng hóa là thép tấm mỏng kỹ thuật điện hay là thép cacbon cán phẳng ở dạng cuộn và không phải dạng cuộn, chứa hàm lượng cabon dưới 0,60% tính theo trọng lượng, có tráng, mạ hay phủ kim loại chống gỉ như kẽm hoặc nhôm hoặc các họp kim gốc sắt theo tất cả các phương pháp phủ kẽm hợp kim gốc sắt, bất kể độ dày và chiều rộng (thép thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định số 3584/QĐ-BCT ngày 01/9/2016 cúa Bộ Công Thương), để áp mã HS tương ứng.
Để giải quyết vấn đề này, theo Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan, bên cạnh việc cung cấp bổ sung đầy đủ các hồ sơ, tài liệu về tiêu chuẩn công bổ áp dụng cũng như kết quả đánh giá sự phù hợp vê chất lượng lô thép nhập khẩu theo quy định tại thời điểm nhập khẩu, Công ty cần chủ động trao đổi, đề xuất với Bộ Công Thương (Cơ quan ban hành Quyêt định số 3584/QĐ-BCT; chỉ định tổ chức thử nghiệm xác định chất lượng thép, thừa nhận kết quả thử nghiệm thép mỏng kỹ thuật điện của tổ chức thử nghiệm tại nước xuất khẩu), Cơ quan hải quan (Cơ quan kiểm tra, phân tích phân loại và áp mã HS đối vói hàng hóa nhập khẩu) để thống nhất lựa chọn và áp dụng một phương pháp phân loại cụ thể với hàng hóa Công ty kê khai là thép tắm mỏng kỹ thuật điện. Sau đó, căn cứ vào kết quả thử nghiệm của mẫu điển hình (được lấy đại diện từ lô thép nhập khẩu), kết quả đánh giá sự phù hợp thép nhập khẩu theo tiêu chuẩn công bố áp dụng (được cung cấp bởi tổ chức đánh giá sự phù hợp đã đăng ký hoạt động và được cơ quan quản lý có thẩm quyền chỉ định hoặc được thừa nhận theo quy định của pháp luật (theo quy định của pháp luật tại thời điểm hàng hóa nhập khẩu)), tham khảo nội dung công văn số 44/2019/HHTVN ngày 9/7/2019 của Hiệp hội Thép Việt Nam, các bên liên quan dùng làm căn cứ kỹ thuật cho việc định danh tên hàng hóa và áp mã HS tương ứng.