Việt Nam được quốc tế đánh giá là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong 20 năm qua. Tình trạng bất bình đẳng giới của Việt Nam đã được cải thiện nhanh với chỉ số phát triển giới (GDI) thuộc nhóm 1 trong 5 nhóm (188 quốc gia). Tuy nhiên, bất bình đẳng giới ở một số lĩnh vực vẫn là vấn đề thời sự cần tiếp tục được quan tâm giải quyết.
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp vẫn chưa mặn mà với việc thực hiện bình đẳng giới tại nơi làm việc mặc dù việc làm này mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, giúp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tỷ lệ lao động nữ tham gia vào thị trường lao động ở Việt Nam hiện luôn giữ ở mức ổn định trên dưới 48%. Theo báo cáo chỉ số phát triển nữ doanh nhân của Mastercard –MIWE thì tỷ lệ nữ doanh nhân tại Việt Nam chiếm 31,3%, xếp thứ 6 trong số các quốc gia, khu vực có tỷ lệ nữ doanh nhân cao nhất.
Bộ luật Lao động 2012 hiện đang trong quá trình sửa đổi đặt vấn đề bình đẳng giới là nội dung quan trọng được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu và thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên vấn đề mấu chốt trong việc thực hiện bình đẳng giới tại nơi làm việc chính là tư duy của cả người sử dụng lao động và người lao động. Doanh nghiệp cần thiết kế chính sách hoạt động của mình theo hướng lồng ghép các nội dung bình đẳng giới tại nơi làm việc, hỗ trợ cho cả lao động nam và lao động nữ có thể thực hiện trách nhiệm công việc và gia đình. Thực hiện bình đẳng giới không chỉ là một mục tiêu mà là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển bền vững và xây dựng nền quản trị tốt.
Tại Hội thảo, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI cho biết, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể về thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó có việc giảm chênh lệch về tỷ lệ đói nghèo giữa nam giới và nữ giới cũng như chênh lệch giới tính trong giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Theo đánh giá mới nhất của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2018, Việt Nam xếp thứ 6 trong 10 quốc gia Bình đẳng nhất về giới tính. Đây là nỗ lực của cả xã hội nói chung và trong đó có sự góp phần của nhiều doanh nghiệp đã thực hiện tốt Bình đẳng giới tại nơi làm việc và tạo ra những bước tiến đáng kể cho công việc sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, theo ông Phòng bất bình đẳng giới vẫn là một thách thức lớn trong sự phát triển của Việt Nam. Ngay cả khi phụ nữ đóng góp thiết yếu cho xã hội và nền kinh tế, họ bị đánh giá thấp trong thị trường lao động và không được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế bình đẳng so với nam giới. Nữ giới vẫn bị hạn chế về quyền ra quyết định, khoảng cách thu nhập theo giới tính vẫn chưa giảm.
"Do đó, việc hoàn thiện những quy định về bình đẳng giới trong Bộ luật Lao động cũng đồng thời giúp Việt Nam bảo đảm tốt hơn sự thống nhất của hệ thống pháp luật. Cộng đồng người sử dụng lao động rất quan tâm sửa đổi luật theo hướng đảm bảo thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc và tạo thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp. Thực hiện tốt bình đẳng giới tại nơi làm việc sẽ giúp doanh nghiệp có cơ hội phát triển nguồn nhân lực tốt hơn, xây được hình ảnh, uy tín của mình, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới", ông Phòng nói.
Vì vậy, Phó Chủ tịch VCCI khẳng định tạo điều kiện bình đẳng cho lao động nam và nữ giúp họ có thể phát triển năng lực của mình, có thêm động lực nâng cao năng suất lao động và duy trì mối quan hệ hài hoà trong lao động, từ đó tăng cường khả năng cạnh tranh trong doanh nghiệp.
Tại hội thảo, ông Mai Đức Thiện, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Lao động –Thương binh và Xã hội chia sẻ những điểm mới trong Dự thảo Luật lao động sửa đổi lần này.
Theo đó, Dự thảo mở rộng khung thoả thuận về thời giờ làm thêm.
“Mở rộng khung thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động về thời giờ làm thêm để tăng sự linh hoạt trong sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và nâng cao thu nhập của người lao động khi làm thêm giờ”, ông Thiện nói.
Tuy nhiên, ông Thiện cũng lưu ý, người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi nhận được sự đồng ý của người lao động. Đồng thời, Dự thảo Luật đề xuất hai phương án tăng khung giờ làm thêm như sau:
Phương án 1, quy định số giờ làm thêm tối đa là 200 giờ trong 01 năm, trường hợp đặc biệt doanh nghiệp có nhu cầu và người lao động đồng ý thì hai bên thỏa thuận làm thêm giờ không quá 400 giờ trong 01 năm.
Phương án 2, giữ nguyên quy định hiện hành.”.
“Với hai phương án này, người lao động và người sử dụng lao động sẽ được thỏa thuận thời gian trong khung giờ cho phép”, ông Thiện nhấn mạnh.
Ngoài ra, dự thảo cũng quy định Chính phủ quy định chi tiết điều kiện tổ chức làm thêm giờ nhằm hạn chế tác động đến sức khỏe nghề nghiệp của người lao động. Nghị định sẽ hướng dẫn chi tiết để doanh nghiệp không được huy động người lao động làm thêm giờ nhiều tháng liên tục và phải bố trí thời gian nghỉ giải lao hợp lý, cũng như các đãi ngộ cho người lao động khi tổ chức làm thêm giờ.
Về vấn đề điều chỉnh tuổi nghỉ hưu nhằm thích ứng với xu hướng già hóa dân số ông Thiện cho hay những sửa đổi về vấn đề này nhằm thích ứng với xu hướng già hóa dân số và tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tận dụng tối đa nguồn nhân lực có kinh nghiệm, chất lượng để phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm cân đối Quỹ hưu trí và tử tuất trong dài hạn.
Theo đó, Dự thảo Luật đề xuất tuổi nghỉ hưu của người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường là nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi với hai phương án như sau:
Phương án 1, kể từ 01/01/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động tăng mỗi năm 03 tháng đối với nam và 04 tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.
Phương án 2, kể từ 01/01/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động tăng mỗi năm 04 tháng đối với nam và 06 tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.”.
“Đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung”, ông Thiện lưu ý.
Về sửa đổi liên quan đến chính sách tiền lương, tiền lương tối thiểu, ông Thiện cho biết mục tiêu của sửa đổi chính sách này là để thể chế hóa Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương của người lao động trong khu vực doanh nghiệp,: “Trong khu vực doanh nghiệp, tiền lương là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Theo đó dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) quy định:
Về tiền lương tối thiểu: (1) thẩm quyền công bố lương tối thiểu; (2) các căn cứ xác định, điều chỉnh lương tối thiểu; (3) tiền lương tối thiểu theo tháng, giờ, theo vùng; (4) cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng tiền lương quốc gia.
Về thang lương, bảng lương, định mức lao động: Tiếp tục thể chế chính sách tiền lương theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua từng bước mở rộng và tạo quyền tự chủ thực sự chủ động cho người sử dụng lao động và người lao động trong trả lương.
Về tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, ông Thiện cho hay Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5/11/2016 của Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã xác định người lao động có quyền thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp nằm ngoài hệ thống Tổng LĐLĐVN.
“Do đó, mục tiêu của sửa đổi lần này là để thể chế hóa quan điểm chỉ đạo trên của Đảng, dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) đã bổ sung quy định về tổ chức của người lao động nằm ngoài hệ thống Tổng LĐLĐVN như sau: “Người lao động có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở thành lập và hoạt động hợp pháp sau khi gia nhập hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, ông Thiện nói.Ngoài ra, dự thảo cũng quy định theo hướng nguyên tắc tôn chỉ, mục đích và phạm vi hoạt động, trình tự thủ tục, hồ sơ thành lập của tổ chức đại diện người lao động; các nội dung cụ thể khác sẽ được quy định chi tiết trong văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, nhằm đảm bảo sự linh hoạt, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu quản lý nhà nước; Đổi mới tổ chức, hoạt động; mở rộng phạm vi áp dụng, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài lao động trong việc giải quyết tranh chấp lao động nhằm góp phần phòng ngừa "đình công tự phát", xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại doanh nghiệp; Tăng cường năng lực hoạt động của thanh tra lao động nhằm bảo vệ các quyền, nghĩa vụ của người lao động tại nơi làm việc bằng việc bổ sung thẩm quyền của cơ quan thanh tra lao động.
Về những điều khoản sửa đổi liên quan đến bình đẳng giới, ông Thiện cho biết những sửa đổi lần này hướng đến sự bình đẳng về giữa lao động nam và lao động nữ.
“Bảo đảm bình đẳng giữa nam và nữ trong lao động: tuyển dụng; điều kiện làm việc (thực hiện công việc và bảo đảm các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho thực hiện công việc); tiền lương, đào tạo, đãi ngộ và thù lao; thăng tiến nghề nghiệp. Nhiều nơi, có những quy định “chỉ tuyển lao động nam” “chỉ tuyển lao động nữ”… nhưng theo dự thảo, chúng tôi sẽ cấm những vấn đề này. Người lao động phải được làm nhưng công việc mà họ lựa chọn”, ông Thiện nói.
Dự thảo Luật lao động hướng đến việc bảo vệ điều kiện làm việc của lao động nữ xuất phát từ đặc điểm sinh lý riêng có của nữ giới; Cải thiện điều kiện lao động đối với lao động nữ; Chăm sóc sức khỏe đối với lao động nữ người lao động nữ được hưởng các điều kiện chăm sóc sức khoẻ như khám sức khỏe định kỳ, khám chuyên khoa phụ sản; không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi; nghỉ 30 phút? Không xử lý kỷ luật trong thời gian nuôi con nhỏ đến 12 tháng tuổi? Cấm thực hiện công việc ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản?
Đồng thời, dự thảo cũng hướng đến thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc, khuyến khích áp dụng chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà phù hợp nguyện vọng của lao động nữ; Giúp đỡ, hỗ trợ của người sử dụng lao động trong việc xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo; Người sử dụng lao động sử dụng nhiều lao động nữ được Nhà nước hỗ trợ giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Về vấn đề làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa đối với lao động nữ mang thai từ tháng thứ 07/đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, dự thảo cho phép sử dụng người lao động nữ làm việc ban đêm, làm them giờ hoặc đi công tác xa nếu được lao động nữ đồng ý.
Tại hội thảo, bà Trần Thị Lan Anh, Phó Tổng thư ký VCCI, Giám đốc Văn phòng Giới sử dụng lao động cho biết, Việt Nam được đánh giá là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong 20 năm qua. Tình trạng bất bình đẳng giới của Việt Nam đã được cải thiện nhanh với chỉ số phát triển giới (GDI) thuộc nhóm 1 trong 5 nhóm (188 quốc gia).
“Tỷ lệ lao động nữ tham gia vào thị trường lao động luôn giữ ở mức ổn định trên dưới 48%. Tỷ lệ nữ doanh nhân tại Việt Nam chiếm 31,3%, xếp thứ 6 trong số các quốc gia, khu vực có tỷ lệ nữ doanh nhân cao nhất. Tuy nhiên bất bình đẳng giới ở một số lĩnh vực vẫn là vấn đề cần tiếp tục được quan tâm giải quyết.
Nhìn chung, tỷ lệ lao động nữ vẫn thấp hơn lao động nam, tập trung trong các lĩnh vực ngành nghề có yêu cầu chất lượng tay nghề, trình độ chuyên môn thấp nên tiền lương, tiền công và thu nhập bình quân của phần lớn lao động nữ thường thấp hơn so với lao động nam”, bà Lan Anh nói.
Đồng thời, bà Lan Anh cho hay cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm chính thức, bảo hiểm xã hội và điều kiện lao động tốt vẫn thấp hơn nhiều so với nam giới. Trong số lao động nữ, nhóm có cơ hội thấp hơn là lao động nữ nông thôn và lao động nữ dân tộc thiểu số.
Theo bà Lan Anh việc thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc sẽ giúp doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và cam kết với bạn hàng, đồng thời giữ chân và tuyển dụng được những lao động có tay nghề, có kỹ năng và nâng cao năng suất lao động, tạo điều kiện cho đổi mới và sáng tạo.
“Đáng nói, việc thực hiện bình đẳng giới sẽ giúp doanh nghiệp Việt nâng cao hình ảnh và danh tiếng của doanh nghiệp, tạo thêm niềm tin của bạn hàng và khách hàng và giảm thiểu các nguy cơ về xung đột tại nơi làm việc và về kiện tụng”, bà Lan Anh nói.