Mức đóng bảo hiểm công trình sẽ theo Thông tư 329/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính. Bà Hiền đã tham khảo Thông tư nêu trên nhưng không thấy quy định mức đóng bảo hiểm bắt buộc đối với công trình giao thông miền núi dưới 50 km và đi qua vườn quốc gia. Bà Hiền đề nghị cơ quan chức năng giải đáp về vấn đề này.
Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
Theo Điểm b, Khoản 1, Điều 4 Nghị định số 119/2015/NĐ-CP ngày 13/11/2015 của Chính phủ quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng (Nghị định số 119/2015/NĐ-CP) thì:
“1. Trừ các công trình liên quan đến quốc phòng, an ninh và bí mật Nhà nước, chủ đầu tư hoặc nhà thầu trong trường hợp phí bảo hiểm công trình đã được tính vào giá hợp đồng phải mua bảo hiểm công trình trong thời gian xây dựng đối với các công trình sau:…
b) Công trình đầu tư xây dựng có ảnh hưởng lớn đến môi trường thuộc danh mục dự án phải thực hiện đánh giá tác động môi trường theo quy định tại Phụ lục II và Phụ lục III Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường và văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có);”.
Đề nghị bà Hiền xác định rõ công trình xây dựng có thuộc đối tượng phải mua bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng theo quy định tại Khoản 1, Điều 4 Nghị định số 119/2015/NĐ-CP hay không.
Trường hợp công trình xây dựng thuộc đối tượng phải mua bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng, theo quy định tại Khoản 1, Điều 15 Thông tư số 329/2016/TT-BTC:
“1. Phí bảo hiểm công trình trong thời gian xây dựng được xác định theo Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này, cụ thể như sau:
a) Đối với công trình xây dựng được bảo hiểm có giá trị dưới bảy trăm (700) tỷ đồng, không bao gồm phần công việc lắp đặt hoặc có bao gồm phần công việc lắp đặt nhưng chi phí thực hiện phần công việc lắp đặt thấp hơn năm mươi phần trăm (50%) tổng giá trị hạng mục công trình xây dựng được bảo hiểm: Phí bảo hiểm được xác định theo Điểm 1, Khoản I, Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này.
b) Đối với công trình xây dựng được bảo hiểm có giá trị dưới bảy trăm (700) tỷ đồng, có bao gồm công việc lắp đặt và chi phí thực hiện phần công việc lắp đặt chiếm từ năm mươi phần trăm (50%) trở lên tổng giá trị hạng mục công trình xây dựng được bảo hiểm: Phí bảo hiểm được xác định theo Điểm 1, Khoản II, Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này.
c) Đối với các công trình xây dựng chưa được quy định tại Điểm 1, Khoản I và Điểm 1, Khoản II Phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư này hoặc công trình xây dựng có giá trị từ bảy trăm (700) tỷ đồng trở lên, doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm có thể thỏa thuận quy tắc, điều khoản, phí bảo hiểm và mức khấu trừ trên cơ sở bằng chứng chứng minh doanh nghiệp đứng đầu nhận tái bảo hiểm xác nhận nhận tái bảo hiểm theo đúng quy tắc, điều khoản, phí bảo hiểm và mức khấu trừ mà doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp cho bên mua bảo hiểm.
Doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm nước ngoài, tổ chức nhận tái bảo hiểm nước ngoài phải được xếp hạng tối thiểu “BBB” theo Standard&Poor’s, “B++” theo A.M.Best hoặc các kết quả xếp hạng tương đương của các tổ chức có chức năng, kinh nghiệm xếp hạng khác trong năm tài chính gần nhất năm nhận tái bảo hiểm”.
Trường hợp công trình xây dựng không thuộc đối tượng phải mua bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng thì tổ chức, cá nhân có thể thực hiện theo quy định tại Khoản 7, Điều 3 Nghị định số 119/2015/NĐ-CP ngày 13/11/2015.