Một trong những mục tiêu đặt ra khi sửa đổi Luật BHXH năm 2006 là cần có những điều chỉnh về chính sách để bảo đảm cân đối quỹ hưu trí và tử tuất trong dài hạn.
Việc tăng tỷ lệ đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đã được điều chỉnh trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 theo quy định của Luật BHXH năm 2006 và khó có thể tăng thêm. Do vậy, để bảo đảm khả năng cân đối của quỹ BHXH cần xem xét điều chỉnh tỷ lệ hưởng lương hưu cho phù hợp với nguyên tắc đóng – hưởng. Tuy nhiên việc điều chỉnh giảm tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa từ 75% xuống là khó có thể thực hiện. Vì vậy, Luật BHXH năm 2014 được Quốc hội thông qua theo hướng vẫn duy trì tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75%, nhưng cần kéo dài thời gian đóng góp để đạt được tỷ lệ này thêm 5 năm đối với cả nam và nữ.
Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2, Điều 56 và Khoản 2, Điều 74 của Luật BHXH năm 2014 thì từ năm 2018, số năm đóng BHXH để đạt được tỷ lệ hưởng lương hưu 75% của lao động nam là 31 năm đối với người nghỉ hưu trong năm 2018; 32 năm đối với người nghỉ hưu trong năm 2019; 33 năm đối với người nghỉ hưu trong năm 2020; 34 năm đối với người nghỉ hưu trong năm 2021; 35 năm đối với người nghỉ hưu từ năm 2020 trở đi. Riêng đối với lao động nữ thì từ năm 2018 trở đi, thời gian đóng BHXH để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 30 năm.
Tác động chủ yếu vào nhóm có thời gian đóng BHXH ngắn
Việc quy định điều chỉnh công thức tính lương hưu trong Luật BHXH năm 2014 có ưu điểm là bảo đảm tốt hơn nguyên tắc đóng – hưởng, tăng khả năng cân đối với quỹ hưu trí và tử tuất, công bằng hơn giữa các đối tượng tham gia BHXH (tỷ lệ hưởng lương hưu tính thêm cho mỗi năm đóng BHXH sau năm thứ 20 của nam và sau năm thứ 15 của nữ cùng là 2% so với quy định 2% đối với nam và 3% đối với nữ tại Luật BHXH năm 2006).
Tuy nhiên, theo quy định của Luật BHXH năm 2014 thì đối với nam việc điều chỉnh được thực hiện theo lộ trình nhưng đối với nữ thì không, dẫn đến tạo sự chênh lệch giữa các mức lương hưu của lao động nữ có cùng thời gian đóng BHXH (có dưới 30 năm đóng BHXH) nghỉ hưu trước và sau thời điểm ngày 1/1/2018.
Việc thực hiện công thức tính lương hưu đối với nữ không phải là quy định mới mà đã được triển khai thực hiện trong giai đoạn 1995 – 2002; mặt khác theo số liệu thống kê của cơ quan BHXH thì trên 70% số người được giải quyết chế độ hưu trí hàng năm thì ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu (tức là đa số người nghỉ hưu hiện nay có trên 30 năm đóng BHXH đối với nam và trên 25 năm đóng BHXH đối với nữ).
Do vậy, tác động của việc điều chỉnh này là không lớn, đối tượng chịu tác động của quy định này chủ yếu ở nhóm có thời gian đóng BHXH ngắn (có dưới 31 năm đóng BHXH) do tham gia BHXH muộn hoặc đã hưởng BHXH một lần.
Theo đó, mức giảm tỷ lệ hưởng lương hưu của lao động nam nghỉ hưu năm 2018 so với năm 2017 là 2%, còn mức giảm tỷ lệ hưởng lương hưu của lao động nữ nghỉ hưu năm 2018 so với năm 2017 là từ 2% đến 10% tuỳ thuộc vào thời gian đóng BHXH của người lao động.
Ngày 1/11/2017, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã có báo cáo Chính phủ về xử lý chênh lệch giữa mức lương hưu đối với người nghỉ hưu trước và sau thời điểm ngày 1/1/2018 theo quy định của Luật BHXH năm 2014 (Báo cáo số 117/BC-BLĐTBAH). Tiếp theo đó, ngày 21/11/2017, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Báo cáo số 584/BC-CP báo cáo Quốc hội về vấn đề trên.