Về vấn đề này, Bộ Tài chính trả lời như sau:
Hiện nay chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước được thực hiện thống nhất theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và Thông tư số 35/2012/TT-BTC ngày 2/3/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 75/2011/NĐ-CP.
Các nội dung về cơ chế hỗ trợ sau đầu tư quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP như sau:
Đối tượng hỗ trợ sau đầu tư là chủ đầu tư có dự án thuộc Danh mục các dự án được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, không vay vốn từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam mà vay vốn từ ngân hàng thương mại thuộc đối tượng hỗ trợ sau đầu tư. Dự án được xác định thuộc đối tượng hỗ trợ sau đầu tư tại thời điểm có Quyết định phê duyệt dự án lần đầu của cơ quan có thẩm quyền.
Điều kiện thực hiện hỗ trợ sau đầu tư là dự án thuộc đối tượng hỗ trợ sau đầu tư; dự án đầu tư được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định và ký kết hợp đồng hỗ trợ sau đầu tư; dự án đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng, có quyết định phê duyệt quyết toán đầu tư có thẩm quyền và đã trả được nợ vay.
Mức hỗ trợ sau đầu tư do Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng và lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước (mức hỗ trợ sau đầu tư hiện hành là 2,4%/năm).
Ngân hàng Phát triển Việt Nam là đơn vị trực tiếp nhận hồ sơ và thực hiện hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP.